Thursday, December 08, 2011

Một Người Đi Xa


*Lời 2 của nhạc phẩm Mưa Nửa Đêm
Tác giả : Trúc Phương
Trình bày : Hoàng Nhật Thơ

Wednesday, December 07, 2011

Tuesday, December 06, 2011

Tìm Lại Thương Đau ...!


Thời gian âm thầm, hờ hững trôi qua trên những tháng ngày lết lê hít thở bụi đường, kể từ khi được "giải phóng" bằng những khẩu súng AK47 đánh phủ tấp nập lên người, bị quăng ra khỏi quân y viện với một thân thể rách nát đẫm máu, đôi chân cụt chưa lành đau đớn cơ hồ ngất lịm ... thoáng đó mà đã 36 năm. Nếu lê lết lại từng giờ phút của dĩ vãng, từng tấc đất khập khểnh thương đau, bệnh cũng phải lết lê hít thở bụi đường để sống, đau cũng phải khập khểnh té lăn lốc để mưu sinh, thì đó là cả một quãng đường dài lê thê, gập ghềnh, ngập tràn bao đắng cay, chua xót, thống khổ, tang thương ... nhưng đứng ở cái mốc thời gian hiện tại, nhìn về quá khứ thì nó chỉ là một thoáng lướt qua, dù giàu sang hay nghèo khổ, dù trên đỉnh cao quyền lực hay lây lất bên lề cõi sống thì thời gian 36 năm vẫn là 36 năm. Hơn nửa kiếp người, kể từ ngày "gãy súng", nát đôi chân khi tuổi đời vừa chớm đôi mươi, tôi chưa một lần trở về thăm lại chốn xưa, tôi muốn đi tìm lại những mảnh vỡ thương đau của tâm hồn trên dòng sông dĩ vãng, muốn được đối diện với những gì không còn hiện hữu, nhưng được ghi lại bằng nỗi xót xa tột cùng trong trang ký ức tang thương, tôi cố gắng đi một lần trước khi trả thân xác về với cát bụi, gởi linh hồn vào cõi hư vô ... Tôi đi tìm lại thương đau ...!

     Trên cuộc đời này, con người có thể vì một lý do nào đó mà chọn cái chết, hoặc đi vào chỗ chết để tìm cái sống, hoặc chấp nhận cái chết cho lý tưởng mà họ đeo đuổi, chớ không có ai đi tìm thương đau ... Một người hùng mũ đỏ, trung úy Nguyễn Văn Đương, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng trước muôn trùng quân giặc, anh bình tỉnh ra lệnh cho thuộc cấp thoát thân, còn anh đã chọn riêng cho mình một con đường trên ngọn đồi máu, anh ở lại can trường chiến đấu đơn độc cho đến viên đạn sau cùng anh dành lại cho anh trước khi quân CSBV tràn ngập ngọn đồi 31 tại chiến trường Hạ Lào năm 1971 ... một cánh hoa dù sáng trên đồi máu, sáng ngời trong trang chiến sử QLVNCH, sáng mãi trong lòng dân tộc ; Một Hải Quân thiếu tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10, trong trận hải chiến với hải quân Trung Cộng nơi quần đảo Hoàng Sa năm 1974, Hộ tống hạm Nhật Tảo bị thiệt hại nặng nề, phòng máy chánh và phòng chỉ huy bị trúng đạn, anh bị thương và biết tình trạng chiếc hạm không thể cứu vãn, anh đã ra lệnh cho người hạm phó và thủy thủ đoàn còn lại phải đào thoát, phần anh ở lại hiên ngang đứng trên chiến hạm từ từ chìm khuất vào lòng biển mẹ, khâm phục thay người anh hùng áo trắng "Tổ Quốc Đại Dương" ; Ngày 30/04/1975, năm vị tướng lãnh cùng một số sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ các cấp và trung tá CSQG Nguyễn Văn Long đã anh dũng chọn cái chết theo mệnh nước, trong những giờ phút uất nghẹn tột cùng bị bức tử "gãy súng", quê hương, đất nước rơi vào tay giặc ; Bao nhiêu người chiến sĩ VNCH đã chọn cái chết trong cơn tuyệt vọng, uất hận tột cùng nơi các lao tù "cải tạo" ; Hằng triệu người Việt rời bỏ thiên đàng máu của lũ cộng sản vô thần, liều chết lao vào đại dương mênh mông bằng những con thuyền bé nhỏ, lênh đênh trên sóng nước bao la không bờ bến với muôn ngàn hiểm nguy, hy vọng mong manh được trôi giạt đến bất cứ một nơi nào trên thế giới có hai chữ "Tự Do" ; Chiến sĩ Võ Đại Tôn bỏ lại vợ hiền, con thơ bơ vơ trên con đường tha hương nơi đất Úc ; Anh hùng Trần Văn Bá, Hồ Thái Bạch, Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Quân từ bỏ công danh, cuộc sống an nhàn trên đất Pháp ; Chiến sĩ "Ó Đen" Lý Tống từ bỏ con đường tương lai rộng mở thênh thang trên đất Mỹ ; Người tù can trường Nguyễn Hữu Cầu, người tù thế kỷ Trương Văn Sương và các nhà đấu tranh dân chủ trong nước ... chấp nhận chết trong tay lũ bạo quyền CSVN, để tranh đấu cho "Tự Do" cho dân tộc, để đấu tranh phá tan gông xiềng nô lệ, giải thể chế độ độc tài, ươn hèn, khiếp nhược, bán nước và hại dân ; Có người chọn cái chết trong cơn quẫn trí vì sản nghiệp tiêu tan, có người quyên sinh giải thoát cuộc đời khi con tim vỡ nát ngập chìm trong giòng lệ của biển tình .v..v... Đó là trường hợp của những người chọn cái chết, chấp nhận chết hoặc đi vào chỗ chết để tìm cái sống, chớ đâu có ai đi tìm thương đau cho cuộc đời, thì nói chi là đi tìm lại thương đau ...

     Tôi đã dự tính cuộc hành trình này từ lâu, nhưng vì điều kiện sức khỏe và tài chánh không cho phép, nên tôi chờ và chờ ... và hôm nay, tôi quyết định sẽ lên đường vào sáng ngày mai, ngày 30/03 ... cũng cái ngày này của 39 năm về trước, trong khi dân chúng Miền Nam chuẩn bị đón mừng mùa lễ Phục Sinh, thì bọn CSBV xua quân ào ạt vượt sông Bến Hải tấn công Miền Nam Việt Nam, gây nên trận chiến "Mùa Hè Đỏ Lửa" kinh hoàng, tàn khốc, máu và lửa đỏ cả quê hương trong suốt năm tháng rưỡi. Trở lại cuộc hành trình tìm lại thương đau, hành trang mang theo và mặc trên người gồm có hai cái áo thun, hai cái quần lính đã được cắt ngắn đến đầu gối, hai chiếc áo trận bạc màu, một cái áo mưa, vài đồ dùng lặt vặt cá nhân và một khung hình nhỏ với tấm ảnh cũ đã phai màu, tôi dự trù thời gian đi đến nơi tôi muốn đến là một tháng với phương tiện di chuyển là đôi chân cụt với cặp nạng gỗ, vấn đề tài chánh thì nhờ vào số tiền một trăm đô, mới vừa nhận được do hội cứu trợ anh em thương phế binh VNCH từ hải ngoại gởi về, đổi ra được hai triệu tiền già Hồ "âm phủ", tôi dùng một phần của số tiền này làm vốn bán vé số, kiếm lời để ăn uống hằng ngày trên cuộc hành trình, tôi cất hay nói đúng hơn là giấu số tiền còn lại trong đôi chân cụt để phòng hờ chuyện xui rủi.

     Giã từ cái chòi "ngàn sao" gió lộng cuối con hẽm nhỏ tối tăm, tôi lên đường ... Đi qua bao nhiêu địa phương bằng đôi chân cụt trong thời gian dự định là một tháng, đoạn đường này dài thật dài đối với một người chỉ còn nửa đôi chân, nhưng nó có thấm vào đâu nếu đem so sánh với con đường tang thương dài 36 năm, thênh thang thống khổ, lầy lội mồ hôi, máu và nước mắt. Cuộc hành trình, ngày lang thang dưới cơn nắng cháy, tạt vào bến xe, ghé qua khu chợ, vào quán cà phê, quán ăn ... gọi mời, rao bán từng tấm vé số, khi những tấm vé số trên tay đã vơi đi phần nào, hoặc cái bao tử "trống đổ liên hồi" hay quá mệt thì tôi dừng chân tạm nghỉ, mua đỡ ổ bánh mì hoặc phần cơm hộp chan nước thịt kho, một chai nước lạnh, ăn uống vội vã rồi tiếp tục lên đường, những giây phút này đôi khi làm tôi nhớ lại lúc cơm cá khô lùa canh "mưa" nuốt vội trên bước quân hành thuở xưa. Những buổi tối rã rời đôi chân hoặc mưa tuôn tầm tả, tôi tìm một mái hiên, góc phố ngả lưng nghỉ qua đêm, có những đêm mưa to gió lớn, tôi ngồi dậy phủ cái áo mưa mỏng lên người, co ro, sưởi ấm bằng những điếu thuốc cháy tàn trên môi, suy nghĩ miên man, nhìn mưa chờ sáng.

     Ngày 29 tháng 04, phân nửa đôi chân và cặp nạng gỗ đã đưa tôi vượt qua con đường dài gần một trăm năm mươi cây số, chỉ còn khoảng ba cây số nữa là đến địa điểm mà tôi muốn đến. Phố nhỏ đã lên đèn, đôi chân cũng rã rời, thôi thì kiếm tí gì lót bụng rồi tìm góc nào đó nghỉ sớm ... nằm cả đêm thao thức, trằn trọc không ngủ được ... cảnh cũ thân quen đã thay đổi nhiều, phố xưa một thuở in dấu giày với bao kỷ nệm, người lính trẻ của 36 năm trước đã trở về đây ... Tôi trở lại vùng hành quân không có ba lô, súng đạn, không nón sắt, giày saut, không bạn bè, đồng đội ... Tôi trở lại bằng thân phận một thương phế binh vong quốc ngay chính trên quê hương của tôi ... Tôi trở lại bằng một trong những mảnh đời bất hạnh bị lũ cướp nước chà đạp bên lề cõi sống trong một đất nước thân yêu đã bị đổi chủ thay tên ... xót xa, nghèn nghẹn ... tôi thiếp vào giấc ngủ cô đơn. Tiếng gà gáy sáng, tôi ngồi dậy với đôi mắt còn cay xé, chai nước uống còn lại một ít đủ để đánh răng, rửa mặt ... Trời chưa vội sáng, nhưng trên đường đã lắm kẻ ngược xuôi, họ là những mảnh đời khốn khổ, vội vã, hấp tấp lao vào dòng đời khi mặt trời còn say ngủ và trở về nhà sau khi phố xá đã lên đèn, để thoi thóp sinh tồn trong một đất nước "lao động là vinh quang", nhưng người dân làm rã người kiệt sức vẫn không đủ ăn trong chính sách gian trá "xóa đói giảm nghèo" của lũ bạo quyền "đỉnh cao trí tuệ" của loài người về phương diện ngu dốt. Tôi đến một quán cà phê nhỏ bên đường mới vừa mở cửa, một quán cà phê đơn sơ với nền đất và vài cái bàn cây, trong quán đang có ba người đàn ông vừa uống cà phê vừa trò chuyện với nhau, tôi không đi vào quán mà ngồi xuống cạnh một gánh xôi bên ngoài, tôi đang nhai miếng xôi thì một người đàn ông trạc tuổi tôi, từ trong quán đi ra bước đến gần tôi, mỉm cười lên tiếng :

_Chào anh, anh từ xa mới đến à ?
Tôi trả lời :
_Dạ, chào anh, tôi từ xa đến đây, tôi trở lại nơi này sau 36 năm.
Người đàn ông đưa mắt nhìn đôi chân cụt với chiếc áo trận bạc màu trên người tôi và khẽ hỏi :
_Anh ... dân "KBC" ?

Ôi ... ba chữ "KBC" thân thương này chỉ có phe ta mới biết, lâu lắm rồi tôi mới được nghe lại, một chút vui nhẹ dâng trong lòng, tôi nhìn anh và trả lời bằng một cái gật đầu nhẹ.
_Mời anh vào trong quán, anh em mình uống cà phê, nói chuyện chơi. Tôi cũng là một "KBC" đây.
_Dạ cảm ơn anh, tôi ngồi ngoài này được rồi, đôi chân của tôi không tiện gì cho mấy.
_Vậy để tôi vào làm ly cà phê cho anh nhé.
Anh bước trở vào quán, vài phút sau mang ra hai ly cà phê. Anh đưa tôi một ly ...
_Mời anh dùng ly cà phê sữa nóng. Tôi tên là B.
_Cảm ơn anh B ... Tôi tên là A.

     Anh B đưa gói thuốc lá mời và ngồi xuống bên cạnh tôi, sau vài lời đổi trao về đơn vị trong cuộc đời binh nghiệp ... . Anh tâm sự, ra trường phục vụ ở một đơn vị tác chiến được hai năm thì "đứt phim", bị lũ cướp nước "khoan hồng" gần ba năm tù đày, khi ra tù thì cha mẹ đã mất, gia tài để lại cho anh và cô em gái là căn nhà lá thân thương này, căn nhà đã che mưa, chắn gió cho hai anh em khôn lớn, cô em gái có gia đình hiện đang ở kế bên. Những tháng ngày sau khi ra tù, nhờ vào cái mảnh bằng tốt nghiệp "cải tạo" và lý lịch "ngụy", nên anh đã chật vật tìm được những việc làm như kéo xe cây, đào đất, khuân vác, đạp xích lô ... Hai vết thương bởi đạn thù, pháo giặc ghim nơi lưng và chân quá đau nhức vì làm việc nặng nhọc, nên anh ngồi trước cửa nhà hành nghề vá xe, khâu vá phần nào mảnh đời rách nát của anh trong dòng tang thương, thống khổ của quê hương bởi thảm họa cộng sản. Ngưng lại giây phút, anh đưa tôi bao thuốc và lấy một điếu gắn lên môi, anh bật lửa rít một hơi thuốc dài, ánh mắt xa vắng qua làn khói thuốc, anh kể tiếp ...
     Năm 1980, vào một buổi chiều cuối tuần lúc vạt nắng cuối ngày vừa tắt, ... khi đang dọn dẹp đồ nghề để nghỉ, thì một tiếng kêu nhỏ nhẹ vang lên từ phía sau lưng :
_Ông ơi ...
Tôi quay lại ngước nhìn lên, đó là một cô gái khoảng gần bằng tuổi tôi, hai tay đang vịn chiếc xe đạp cũ. Tôi lên tiếng :
_Xin hỏi cô cần chi ?
Có lẽ cô gái thấy tôi còn trẻ nên đã đổi cách gọi ...
_Chiếc xe của tôi bị xẹp bánh, anh vui lòng xem giùm tôi nhé.
_Dạ được.
Vài phút sau, tôi đã tìm ra một vết thủng nhỏ, có lẽ cán phải đinh. Tôi chỉ cho cô gái thấy và nói :
_Để tôi vá lại cái ruột xe cho cô ... cô vui lòng chờ trong chốc lát nhé. À xin lỗi ... tôi không có cái ghế để mời cô ngồi, mong cô thông cảm cho.
_Dạ không sao, tôi đứng chờ cũng được mà, cảm ơn anh.
Trong lúc vá ruột xe, tôi và cô gái ấy trò chuyện với nhau, tôi được biết cô ta là cô giáo dạy ở một trường tiểu học trong phố, vài đêm trong tuần phải đi dạy thêm cái đám "đỉnh cao trí tuệ" ở một lớp "bình dân học vụ".
Ngưng lại một tí, anh B mỉm cười kể tiếp :
_Từ buổi vá xe "duyên" ấy, chúng tôi đã quen nhau, tìm hiểu nhau và một năm sau đó, chúng tôi nguyện ước ký "nợ" khâu vá mảnh đời cho nhau trong những tháng ngày còn lại của kiếp người. Hai vợ chồng chúng tôi có một đứa con trai hiện đang làm việc cho một công ty tư nhân ở trên tỉnh, vợ tôi vẫn còn dạy học, tôi thì trông coi cái quán này và cũng còn hành nghề vá xe để phụ thêm, lây lất qua ngày trong cái thiên đàng đảng giàu sang, dân thống khổ, quê hương tả tơi.
Anh quay lại gọi người phụ nữ mới vừa xuất hiện trong quán :
_Em ơi.
Người phụ nữ bước đến đứng bên anh và khẽ gật đầu chào tôi. Anh quay lại nói với tôi ...
_Giới thiệu với anh, đây là người bạn đời yêu quý của tôi.
Anh cũng không quên giới thiệu :
_Còn đây là anh A, từ xa mới đến và cũng là dân "KBC" như anh.
Tôi khẽ gật đầu :
_Chào chị.
_Dạ chào anh.
Tôi cũng kể vắn tắt về hoàn cảnh của tôi và hôm nay trở lại nơi này để thăm những thằng bạn và đồng đội cũ. Anh B hỏi tôi :
_Bạn bè, đồng đội của anh cũng ở nơi này à ?
Tôi gật đầu, đưa ánh mắt buồn bã, chỉ tay về một cánh rừng nhỏ xa xa ... tụi nó ngủ vùi nơi đó đã 36 năm rồi ... Một khoảnh khắc im lắng, một chút gì xót xa trong ánh mắt của mỗi người ...!

Trời đã sáng tỏ, tôi đưa tiền trả tiền xôi, nhưng bà cụ bán xôi nói :
_Cậu khỏi phải trả tiền đâu, để tôi gói thêm ít xôi cho cậu mang theo ăn dọc đường.
Tôi nghèn nghẹn ...
_Dạ cảm ơn bác.
Tôi cầm tiền quay sang anh B, nhưng anh đã lên tiếng :
_ Thôi tiền bạc gì, có một ly cà phê, chẳng lẽ tôi đãi anh không được sao.
Anh B vừa nói vừa nhét vài tờ giấy bạc vào túi tôi ...
_Anh giữ dùng làm lộ phí.
Tôi lấy tiền ra trả lại cho anh, nhưng anh nắm tay tôi và nói :
_Chút tình chiến hữu mà.
Vợ anh đứng kế bên lên tiếng :
_Đây là chút lòng thành của vợ chồng tụi em, mong anh nhận cho, khi nào trở về, mời anh ghé lại nghỉ ngơi vài hôm. Em sẽ làm vài món nhậu để ông xã em và anh lai rai, hàn huyên, tâm sự với nhau.
Một niềm cảm xúc nhẹ dâng, không biết nói gì hơn, tôi đưa tay bắt tay anh.
_Cảm ơn anh chị thật nhiều.

     Một cái siết tay thật chặt trong tình "Huynh Đệ Chi Binh", tình chiến hữu tao ngộ trong hoàn cảnh và thân phận của hai kẻ "gãy súng". Tôi xin phép chào tạm biệt bà cụ bán xôi tốt bụng và vợ chồng người chiến hữu mới quen quý mến. Tôi chống cặp nạng quay lưng bước đi ... Quý hóa thay hai chữ "tình người" trong lòng những kẻ bất hạnh, thống khổ, những nạn nhân từ cuộc đổi đời tang thương của quê hương !

     Trên đường, tôi ghé vào chợ mua một miếng thịt heo quay nhỏ, một bó nhang, hai cây đèn cầy, một bao thuốc lá, một xị rượu trắng. Mặt trời trên đỉnh đầu, tôi đã đặt chân lên vùng lửa khói năm xưa, dù cảnh vật thay đổi rất nhiều trong hơn nửa đời người, nhưng làm sao tôi quên được nơi này và những ngày đau thương cũ ... Đơn vị tôi chiến đấu dũng cảm với quân số địch đông hơn gấp mấy lần, chống trả mãnh liệt từng đợt tấn công biển người của cộng quân, cố gắng ngăn chận quân giặc đang tìm cách tiến về thủ đô Sài Gòn. Lũ giặc từng lớp, từng lớp bị đốn ngã ... bạn bè, đồng đội, kẻ hy sinh, người bị thương, kẻ tan xác, máu vương đỏ từng gốc cây, bụi cỏ ... phần tôi thì lãnh nguyên một tràng đạn nát cả đôi chân trong những ngày sau cùng của cuộc chiến, tôi và những người đồng đội bị thương nặng được tải thương trong lằn đạn của địch ... giã từ vũ khí ngày 25/04/1975.

     Tôi giựt mình tỉnh dậy bởi tiếng la hét, bởi những khẩu súng AK47 đánh phủ người, tôi và những anh em thương bệnh binh bị lũ nón cối kéo lê xềnh xệch quăng ra khỏi quân y viện, trên đường phố đã thấy những chiếc nón cối, mũ tai bèo, dép râu, lá cờ hai màu xanh đỏ với ngôi sao vàng ... tôi trố mắt ngơ ngác bàng hoàng đến nỗi quên cái đau đớn đang hành hạ xác thân bầm dập đẫm máu đào, một người đi đường dừng lại bên tôi nói "mất nước rồi". Ôi còn nỗi đau đớn nào hơn nữa không ... Tôi bò trườn đi trong ánh nắng buồn sắp tắt trên quê hương vừa bị cưỡng bức đổi chủ ... chiều ngày 30/04/1975 !

     36 năm như giấc mộng thoáng qua, từng hình ảnh của hơn 1/3 thế kỷ trước lần lượt hiện ra như mới vừa xảy ra ngày hôm qua ... Tôi đã trở lại chiến trường xưa, tôi đứng lặng yên một hồi lâu, để cho niềm cảm xúc, xót xa tự dâng trào lên khóe mắt rồi chảy dài xuống mặn bờ môi ... chiến trường xưa giờ phủ đầy cỏ dại, bụi thời gian đã che lấp dấu giày saut, cảnh vật với 36 mùa thay lá đã phủ mất dấu vết của một thời lửa đạn, xác bạn bè đã mục rã trong lá cây rừng hòa lẫn vào lòng đất mẹ ... có ai biết được nơi chốn thanh vắng, ngàn lá xanh tươi hiện giờ đã từng là chiến trường đẫm máu, nơi đã vùi chôn bao nhiêu thân xác của những chàng trai đi viết sử xanh và xác lũ giặc xâm lăng ... Dòng thời gian đã khỏa lấp dấu vết chiến trường xưa, hình ảnh tang thương của tháng ngày bi hùng nhạt nhòa sau hàng mi nhẹ khép ...!

     Tôi trở về đây tìm lại thịt xương của đôi chân gãy, tìm bạn bè, đồng đội trong khói sương, tìm giòng máu tuôn đổ thắm sa trường, tìm niềm đau hằn vương trong ký ức ... Tôi đi từng gốc cây, bươi từng bụi cỏ, hy vọng mong manh tìm được một chút gì còn sót lại của ngày xưa ... một mảnh giày saut, một tấm thẻ bài hoặc một mảnh xương khô ... Tôi cũng tìm lại thương đau từ một vết thương không lở loét, không vết sẹo, nhưng không bao giờ lành và chưa hề khép lại dù chỉ một giây, vết thương lòng "Tháng Tư Đen" ... Ánh nắng chiều dần phai, kỷ niệm buồn vương vạt nắng lưa thưa ...!

     Tôi đi nhặt vài viên đá nhỏ, chất chồng lại tượng trưng cho một nấm mộ, tôi lấy từ trong gói hành trang bày trước nấm mộ ... một miếng thịt quay, chai rượu đế, bao thuốc lá, một gói xôi ... tôi cũng không quên lấy ra khung hình pho tượng "Thương Tiếc" mà tôi đã mang theo, tôi thắp hai cây đèn cầy và ba nén nhang ... tôi nhỏ ba giọt rượu lên nấm mộ và đốt một điếu thuốc, tôi ngồi lặng yên ... tôi thắp thêm ba nén nhang, nhỏ ba giọt rượu và đốt điếu thuốc thứ hai, tôi ngồi lặng yên ... tôi thắp thêm ba nén nhang, nhỏ ba giọt rượu và đốt điếu thuốc thứ ba ... thân hình tôi khẽ rung động và rung động từng cơn, sự cảm xúc bị đè nén đã bật thành những tiếng nấc đau thương, uất nghẹn, xót xa ... mới đó mà đã hơn nửa đời người ... bạn bè, đồng đội, người thì nằm xuống dưới lòng đất mẹ loang lổ tang thương, kẻ kéo lê mảnh đời thống khổ trên quê cha rách nát tang tóc, người thì sương tuyết phủ mái đầu, miệt mài đấu tranh khi chiếc bóng đời đang ngã dần về Tây trên bước đường lưu vong, viễn xứ ... hai dòng nước mắt trào tuôn chảy dài theo từng tiếng nấc xé nát cõi lòng ...!

     Tôi đã trở về đây thăm anh em sau 36 năm dài tang thương, lê lết, kể từ khi tôi gãy chân, anh em "gãy súng" vĩnh viễn nằm lại nơi đây, anh em có linh thiêng hãy về uống rượu tâm sự với tôi, cùng tôi ôn lại quãng đường chinh chiến cũ và xin hãy phù hộ cho quê hương sớm thoát khỏi gông cùm cộng sản khát máu. Hôm nay là ngày 30/04/2011, tôi về đây thăm và làm đám giỗ cho anh em cùng với ngày đại tang của quê hương, ngày Tổ Quốc quấn khăn tang lần thứ 36 !

      Bóng tối phủ trùm lên khu rừng vắng lặng, tôi ngồi lắng yên suy nghĩ ... ngọn lửa của cuộc cách mạng "Hoa Lài" đã soi sáng tự do Tunisia, ngọn lửa dân chủ đã thiêu đốt chế độ độc tài Ai Cập, đang bùng cháy dữ dội tại Libya và lan dần ra đến các chế độ độc tài, cộng sản trên thế giới, sôi sục tinh thần đấu tranh của người Việt hải ngoại, đang hừng hực trên quê hương tôi, đất nước đang chuyển mình, sóng lòng dân đang cuồn cuộn trong huyết quản chuẩn bị đồng loạt dâng trào khai tử lũ cộng sản bạo tàn khát máu. Tôi ôm tấm hình pho tượng "Thương Tiếc" vào lòng, tôi nghe tiếng lá rừng xào xạc trong gió, có phải chăng là nhịp bước của những gót giày saut đang trở về và hình như có tiếng cười nói xôn xao của bạn bè, đồng đội quyện trong hồn thiêng sông núi thoảng theo từng cơn gió vọng về, chuẩn bị giờ phút lịch sử cùng toàn dân hân hoan chào mừng ngày quê hương thoát khỏi gông cùm xiềng xích của lũ bạo quyền cộng sản vô thần.

     Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ tung bay khắp khung trời Tổ Quốc Không Gian, phất phới kiêu hùng từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, tung bay ngạo nghễ nơi hải đảo Trường Sa, Hoàng Sa, trên từng phần đất của quê cha, trên từng con sóng đại dương của biển mẹ Việt Nam và oai hùng tung bay phất phới nơi các quốc gia tự do trên toàn thế giới.

     Giờ phút lịch sử đó, toàn dân Việt Nam sẽ ôm nhau vui mừng đến rơi lệ.

     Ngày đó sẽ không xa.

     Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Muôn Đời.

Nhân ngày Tưởng Niệm Quốc Hận lần thứ 36.

Monday, December 05, 2011

Người Ngoài Phố


Tác giả : Anh Việt Thu
Trình bày : Hoàng Nhật Thơ

Nhờ "Giải phóng"



Nhờ "giải phóng" ... Dân tự do đói khổ,
Tự do nghèo để đảng được giàu sang,
Dân lầm than với cuộc sống cơ hàn,
Để đảng được huy hoàng trên xương máu.

Nhờ "giải phóng" ... Dân tự do mát mẻ,
Người không quần ... Kẻ không áo lang thang ...
Trong ngục tù ... cộng sản gọi thiên đàng,
Của chủ nghĩa bạo tàn và khát máu.

Nhờ "giải phóng" ... Dân tự do sinh sống,
Nơi gầm cầu, hè phố ... lết lê la,
Vì đảng đã ăn cướp hết cửa nhà,
Để dân sống như  hồn ma lảng vảng.

Nhờ "giải phóng" ... Dân tự do thoải mái,
Nhai khoai mì, củ sắn, nuốt bo bo,
Chuyện vệ sinh ... thì dân chẳng cần lo,
Ăn không có ... có phân đâu mà  ị.

Nhờ "giải phóng" ... Dân đứng đầy đường phố,
Chồng ăn mày ... Vợ bán máu nuôi con,
Đây ông già bươi đống rác lượm lon,
Kia bà cụ lưng còng bán vé số.

Ôi "giải phóng" ... Dân lành mất sự sống,
Cách mạng về ... Dân chẳng buổi ăn no,
Nhờ Bác, Đảng ... Dân cày thế trâu bò,
Nhờ độc lập ... Dân bò lê khắp phố.

Cộng sản vô ... Dân trở thành vô sản,
Bộ đội vào ... Dân quấn mảnh khăn tang,
Cách mạng chi ...! Dân sống cảnh cơ hàn,
Nhờ "giải phóng" ... Dân làm phỏng cả "dzế" ./.

Dec 04, 2011

Sunday, December 04, 2011

Đợi Chờ ...




Tôi đợi chờ em đến bao giờ,
Tháng ngày dệt mộng kết thành thơ,
Mộng tan ... tỉnh giấc ... em hư ảo,
Tôi biết mình khờ ... sống trong mơ !

Tôi đợi chờ em cuối nửa đời,
Em đem tình ấy giỡn đùa chơi,
Khi chợt hiểu ra ... đầu đã bạc,
Tôi khẽ gục đầu ... giấu lệ rơi !

Tôi đợi chờ em đã mấy mùa,
Thu vàng hiu hắt  sầu đong đưa,
Chiếc lá thu phai … buồn giăng lối,
Giọt mưa thu  vỡ … mất nhau chưa !

Tôi đợi chờ em bao thu rồi,
Hằng năm nhìn lá với mưa rơi,
Tôi chờ em đến giây phút cuối,
Em khẽ trả lời : "Chẳng yêu tôi" !

 Feb 20, 2009

Wednesday, November 30, 2011

Viết Đúng Tiếng Việt Dễ Hay Khó ?



Khi đặt câu hỏi này , người viết cũng ước lượng sẽ gặp những câu trả lời như : " Đã sinh ra ở Việt Nam , sinh sống , lớn lên đi học trường Việt Nam , thấm nhuần văn hóa Việt Nam , còn viết không đúng tiếng Việt , nên " đi chết " đi ! .

Ấy ! ấy ! xin đừng nóng , người viết xin thưa cùng quí vị đôi điều : Thấy vậy mà không phải vậy !

Một cách căn bản , muốn viết đúng tiếng Việt cần viết cho đúng dấu hỏi ngã , và đúng chính tả . Đó là chưa nói tới phải đúng trong cách đặt câu cho rõ ràng , có chủ từ , động từ , túc từ ...v . . . v . . . Tĩnh từ và trạng từ cũng quan trọng không kém , phải đặt đúng vị trí trong câu . Ngay cả cách chấm câu , xuống hàng không phải muốn chấm câu ở đâu cũng được . Những dấu cuối của một câu , như dấu chấm hỏi , chấm than cũng không phải bạ đâu cũng chấm than , chấm hỏi , vì những dấu này đặc biệt thể hiện ý muốn của tác giả muốn đặt một câu hỏi , hay nghi vấn về một việc chưa rõ , hay than vãn về một sự việc nào đó . Nói tóm lại là phải đúng văn phạm .

Có người cho rằng người sinh trưởng ở miền Bắc nói và viết tiếng Việt chuẩn vì cách phát âm đã có sẵn dấu hỏi ngã và chính tả rồi .

Đúng 90/100 thôi , chuyện này mình sẽ bàn ở đoạn sau .

Thú thật khi viết về đề tài này , tôi rất ngại ngần . Bởi lẽ chủ đề không đơn giản , đã viết là phải phân tích rõ ràng , thí dụ cụ thể và như thế không thể tóm gọn trong vài trang . Mặt khác anh em mình cũng đã " chuẩn thất thập " trở lên , không ai huỡn mà nghiền ngẫm , lại có thể một số anh em " rầy " mình nữa : " Sao bày đặt khó khăn làm chi ? " Các bạn và quí vị ơi , thôi thì ai thích thì đọc cho vui , không thì đừng để mắt tới .

Xin quí vị hãy xem đây là một bài viết thuộc loại tạp văn , hay tùy bút , không phải là một bài nghiên cứu về ngôn ngữ có tính hàn lâm . Việc ấy thuộc thẩm quyền của các nhà ngôn ngữ học , khoa bảng . Tôi chỉ lượm lặt , ghi lại những điều đã đọc , nghe được . Cũng xin nói thêm một số thí dụ tôi đưa ra được ghi lại từ báo chí , internet . Một số câu tôi đặt ra để lồng vào những từ ngữ muốn thí dụ . Xin quí vị lấy ý mà quên lời , không xét nét về cách đặt câu , cũng như qui tắc văn phạm vì đây chỉ là những thí dụ mà thôi .

Trở lại câu hỏi : Viết đúng tiếng Việt dễ hay khó ? Xin thưa rằng : không dễ ! Vì viết sai là bị khi dể ( có lẽ nói trại từ chữ dở ) .

Rắc rối là ở đây : " Chiều nắng ngả ở ngã tư , nơi những ngả đường giao nhau , em ngả đầu lên vai anh , bóng mình ngã dài trên ngã hẹp "

" Nó đang ngả nón chào thì ngã khuỵu tại ngã ba đường gần ngả ra bờ sôngì " Chỉ một chư " ngã " mà khi thì dấu hỏi khi dấu ngã vì mỗi dấu làm khác nghĩa của chữ gốc .

Nếu viết một bài phân tích đầy đủ lại phải xét rất nhiều thứ . Nào là ngữ âm ( nguyên âm , phụ âm ) , qui tắc hài thanh , từ đơn âm , từ kép , từ ghép , từ đa âm , từ Hán Việt , từ láy , tiếng địa phương , tiếng Nôm . Làm sao phân biệt từ Hán Việt và tiếng Nôm . . . Thật là nhiêu khê , vậy nên người viết chỉ đơn giản , lượt qua những chữ thường gặp thôi .

Ngữ âm : Gồm các nguyên âm và phụ âm sau đây :

Nguyên âm : a , ă , â , e , ê , i , y , o , ô , u , ư ,

Phụ âm : b , c , k , ch , d , đ , g , gi , gh , k , kh , l , m , n , ng , nh , p , ph , qu , r , s , t , th , tr , v , x .

Qui tắc hài thanh :

Thanh bổng : giọng cao cho những chữ có dấu : không dấu , sắc , hỏi .

Thanh trầm : giọng thấp cho những chữ có dấu : huyền , nặng , ngã .

Qui tắc : Những chữ cặp đôi với chữ có thanh bổng ( không , sắc , hỏi ) = viết dấu hỏi

Những chữ cặp đôi với chữ có thanh trầm ( huyền , nặng , ngã ) = viết dấu ngã

Thí dụ : lững lờ , vì lờ là dấu huyền , nên lững là dấu ngã , còn lửng lơ , vì lơ không dấu nên lửng là dấu hỏi

Qui tắc này có những ngoại lệ sẽ bàn sau .

Từ đa âm : có từ hai âm tiết trở lên , có ít nhất một âm vô nghĩa ( hoặc không rõ nghĩa ) khi tách rời ra . Thí dụ : ba ba , tẽn tò , vẻn vẹn , vỏn vẹn .

. . Những chữ sau đây không biết nên xếp vào loại tự nào : nghểu nghến , nghễu nghện , ngất nghểu , tủn mủn . . . cũng đa âm , vô nghĩa khi tách rời ra , nhưng chắc không phải là từ ghép ( tách ra vẫn còn nghĩa )

Từ láy : thí dụ : hợm hĩnh , hậu hĩnh , hý hửng . . .

Từ ghép : tập hợp vài từ đơn âm : đo đỏ , tim tím , hậu sự , hậu đãi . . .

Trong vài trường hợp không có ranh giới rõ ràng cho các từ láy và từ ghép , hoặc vừa là láy cũng vừa là ghép .

Qui tắc hài thanh cũng có những trường hợp ngoại lệ . Đáng lẽ phải là dấu hòi vì : không sắc hỏi = hỏi , đằng này lại viết ngã . Thí dụ : sư sãi , đối đãi , hung hãn , ve vãn , minh mẫn , trơ trẽn , vung vãi , khe khẽ , ngoan ngoãn , nông nỗi . . v .v . .

Đáng lẽ phải là dấu ngã vì : huyền , nặng , ngã = ngã , nhưng lại phải viết dấu hỏi . thí dụ : lẳng lặng , mình mẩy , sàng sảy , vẻn vẹn , bền bỉ , nài nỉ , nhỏ nhặt , nhỏ nhẹ , sừng sỏ , học hỏi , sành sỏi , mềm mỏng , bồi bổ , niềm nở . . . v . v . .

Xin đọc một vài thí dụ sau đây , khi thì dấu hỏi , khi dấu ngã :

" Đừng phí công nài nỉ ỉ ôi một cách ầm ĩ để xin tao cái nón nỉ . Cái nón rất bền bỉ , vì là kỷ vật nên tao giữ rất kỹ , đó là kỹ thuật cao cộng thêm kỹ xảo . Nó bền bỉ trong lúc tao bĩ vận . Đừng làm hỏng nó mà bỉ mặt tao "

" Đừng kêu la ầm ĩ , cứ để nó âm ỉ , chớ ỷ lại bắt người ta nấu chè ỉ . Cũng đừng ỷ y sức khoẻ khi bị mưa ướt i ỉ "

Từ Hán Việt :

Hơn phân nửa từ ngữ Việt Nam là từ Hán Việt . Mình quen dùng đến độ cứ tưởng đó là tiếng Việt thuần túy . Đó là những chữ gốc Hán mình phát âm theo tiếng Việt . Thí dụ : kinh tế , quân sự , quốc gia , văn hóa , ngoại giao , văn minh , chính trị ....v . . . v . . . Tiếng Việt thuần túy khi nói ra là người nghe hiểu dễ dàng . thí dụ : " Hôm qua tôi đi chợ mua đồ ăn " không cần phải moi móc diễn giải , kiểu : quốc = nước / gia = nhà v . .v . Xin quí vị đọc thử câu sau đây :

" Chính phủ ban lệnh cải cách điền địa song song với chương trình tu chỉnh hệ thống ngân hàng " Chỉ có một chữ " với " là thuần Việt mà thôi . Có người cắc cớ hỏi : Vậy chính phủ là gì ? Lại phải hì hục giải nghĩa ( không phải giải mã đâu nghe ) . Thật ra là thông dịch ý nghĩa : Chính phủ là cơ quan quyền lực tối cao của một quốc gia , bao gồm ba ngành Hành pháp , Lập pháp , Tư pháp . Lại đa phần là từ Hán Việt . Có thể nói khoảng 70/100 chữ Việt Nam là từ Hán Việt .

Từ Hán Việt có luật hỏi , ngã của riêng nó .

Những chữ có khởi đầu bằng các nguyên âm sau đây : a , â , o , ô , u , ư . viết dấu hỏi . thí dụ : ẩm thực , ải quan , ảnh hưởng , ổn thỏa , ảm đạm , ủng hộ . . . v . v .

Những chữ khởi đầu bằng các phụ âm sau đây : L, m , n , ng , nh , d , v . phải viết dấu ngã . thí dụ :

L = lãng mạn , lễ nghĩa , lẫm liệt . . .
M = mãn nguyện , mỹ nhân , mỹ mãn , mãnh liệt . . .
N = nữ lưu , nữ sĩ , não loạn , não bộ , noãn sào . . .
Ng = ngũ cốc , ngữ ngôn , ngẫu nhiên , quân ngũ . . .
Nh = nhẫn nại , nhĩ căn , nhãn khoa , nhã ý . . .
D = diễm lệ , diễn đàn , dũng cảm ,dĩ vãng . . .
V = vãng lai , vĩ đại , võ trang , vũ trụ . . .

Những chữ khởi đầu bằng các phụ âm sau đây : b , c , d , h , k , qu , t , có một số viết hỏi và một số viết ngã . Thì ra từ Hán Việt mặc dầu có luật hỏi , ngã của riêng nó , nhưng vẫn có ngoại lệ . Thí dụ :

Bải bôi / bãi thị
Bảo trọng / bão hòa
Cửu vạn / linh cữu
Đảng viên / du đãng
Hải đăng / hãi hùng . . .

Có một câu thiệu để viết đúng dấu ngã trong tiếng Hán Việt . Câu thiệu này tôi lượm được trên net . Đó là

Mình Nên Nhớ Vũ Là Dấu Ngã / hoặc quí vị có thể đổi vị trí các phụ âm đầu để " chế " ra một câu thiệu khác theo ý thích .

Tiếng Nôm :

Tất cả các từ không phải Hán Việt đều là tiếng Nôm . Thí dụ : cái nhà , lúa gạo , hôm nay . . . v . . v . . nghĩa là không phải truy xét ý nghĩa ẩn tàng nào . Khác với từ Hán Việt có nghĩa ẩn tàng cần phải truy dịch ra để hiểu . Thí dụ :

Bệnh viện : chỗ chứa người bệnh để chữa bệnh
Phi trường : chỗ sân rộng để máy bay lên xuống . . . .
Những chữ có nghĩa tương tự , nhưng viết khác :

Thí dụ :

" Đừng vung vẩy nước mà ướt áo " và :
" Đừng vung vãi lúa gạo như thế phí quá "

Xét ra hai chữ vung vẩy và vung vãi nghĩa rất tương cận nhau nhưng hỏi , ngã lại khác .

Cùng một chữ nhưng viết khác dấu tùy vị trí chữ ấy ( là danh từ , động từ , tĩnh từ hay trạng từ . . . ) :

" Mành treo trướng rủ nên treo cờ rủ , vậy phải rũ mành và để cho lá cờ rũ . Mọi người đều ủ rủ đứng cú rũ "

" Thằng Tám bị niểng cổ , đi cà niễng "

" Muốn dỡ hổng gánh này phải dỡ lên bằng cách dở bổng ( dỡ hổng : nhấc lên vừa khỏi mặt đất , dở bổng : đưa lên cao hẳn )

" Anh là người có lễ nghĩa thì đừng kể lể về chuyện chích lể trong ngày lễ lạc "

Những chữ chính tả bất phân biệt :

Những chữ sau đây thấy có hai cách viết , kể cả các văn bản nghiêm túc ( xử dụng , sử dụng ) ( lõi cây , lỏi cây ) ( lõi tì , lỏi tì ) ( rán học , ráng sức ) ( cọng sản , cộng sản ) ( ễnh ương , ễng ương ) ( giằn vặt , dằn vặt ) ( gièm pha , dèm pha ) ( giùi mài , dùi mài ) . Dùi mài có lẽ sai vì là đem cái dùi đi mài .

Đọc , bắt gặp nhiều nhất là xử dụng và sử dụng / rán , ráng / chia xẻ và chia sẻ / cọng sản và cộng sản .

Tra từ điển wikipedia/viet không thấy có chữ xử dụng , cũng không có chia xẻ , không có sáng lạn mà là xáng lạn . Tra thêm từ điển online khác cũng như thế . Tôi tin rằng những " kho chữ " này đươc xây dựng sau 1975 . Vì trước 75 miền nam luôn viết " xử dụng " vì là cư xử và ứng dụng , dùng cho một sự việc nào đó , chẳng ai nói " sử dụng " cả , chỉ có sử học , lich sử , sử ký . . . Cũng thế , chẳng ai nói " chia sẻ " cả . Xẻ là cắt ra , chia ra như xẻ thịt , xẻ gỗ , xẻ trái cây , xẻ bắp chuối . . . Còn " sẻ " là thế nào ? Chim sẻ chăng ? hay se sẻ ( khe khẽ ) ? Còn xáng lạn là sao ? Trước kia chỉ nghe nói ' xáng bạt tai " hoặc là " kinh xáng " chẳng nghe nói " xáng lạn " bao giờ . " sáng lạn " hàm ý một điều gì sáng sủa , nghe còn có ý nghĩa .

Chữ " rán " và " ráng " có cùng nghĩa là cố lên , gắng lên . Thí dụ: "

Con rán học giỏi để ba , mẹ vui lòng , nên nhớ rằng mình cố công ráng sức thì việc khó cũng làm được " ( không bàn đến nghĩa rán là chiên , như cá rán , đậu rán . Còn ráng cũng có nghĩa là áng mây , như ráng chiều ) .

Hai chữ dòng và giòng gây nhiều lẫn lộn . Xin đọc thí dụ sau đây :

" Đứng Bên Dòng Sông Trẹm chợt nhớ về Giòng Sông Thanh Thủy " Đây là hai tác phẩm của hai nhà văn tên tuổi , Bên Dòng Sông Trẹm của Dương Hà , còn quyển Giòng Sông Thanh Thủy của nhà văn Nhất Linh . Tôi vào Google , type tên hai quyển sách thì thấy hiện lên đầy đủ bài viết và hình bìa của cả 2 quyển sách . Điều tôi muốn nêu ra đây là 2 quyển sách đó có tựa đề là tên của 2 con sông mà cách viết khác nhau , " Dòng Sông " và " Giòng Sông " . . . Xin các bậc thức giả chỉ ra giùm viết sao cho đúng . Tôi không tin rằng hai nhà văn tên tuổi lại thiếu cẩn trọng cho tựa đề tác phẩm của mình .

Chúng ta cũng thường thấy như sau : " Dòng dõi Việt Nam " nhưng cũng có " giòng giống Việt Nam " cũng như " Dòng tộc nhà Nguyễn " nhưng là " Giòng họ nhà Nguyễn " Thế thì " Dòng tộc " và " Giòng họ " thì khác gì nhau ?.

Lại cùng âm " ồng " , xin đọc thí dụ sau đây :

" Loại khoai mì ( sắn ) chỉ thích hợp với đất giồng ( đất có gò nổi , đất pha cát ) . Người ta cuốc đất thành từng dòng ( hàng ) để trồng khoai . Mỗi luống phát triển thành những vồng khoai to tướng ." Chắc các quí vị còn nhớ câu sau đây :

" Sông kia giờ đã nên vồng " ( có người ghi là đồng , giồng ) để thấy rằng muốn viết cho thật đúng cũng không dễ .

Những chữ dễ nhầm vì xuất hiện hai cách viết :

Xoi mói / soi mói
Cọ xát / cọ sát

Tôi nghĩ hai cặp chữ này có thể chấp nhận được , vì xoi hay soi cũng đều có nghĩa là moi ra , vạch ra , soi còn có nghĩa là chiếu soi , rọi sáng . Còn xát là chà xát cũng có nghĩa tương cận với hai vật gì cặp sát nhau . Hai vật cặp sát nhau mà cọ thì đúng là chà xát rồi .

tham quan và thăm quan : Theo tôi hai chữ đều sai vì hướng tới một nghĩa khác .

" tham quan " rất ít khi dùng ở miền Nam trước 75 . Đó là một chữ chính thức trong ngôn ngữ tiếng Việt . Tuy nhiên sau này quí ngài vc sợ " quần " chúng hiểu lầm là quan tham nên chế ra chữ " thăm quan " . Lại hỏng nữa vì thăm quan còn có nghĩa là thăm viếng một ông quan nào đó . Thí dụ câu sau đây :

" Quan chức tỉnh A đi thăm quan cửa khẩu B " . Sao không nói đơn giản là thăm viếng ?

Những chữ sau đây ít còn thấy dùng :

Giặt gỵa / gièm giẹp / giạng háng / ( là dạng chân ra , soãi chân ra ) không chắc phải viết sao cho đúng , dạng chân hay giạng chân ? xoãi chân hay soãi chân ? Chính tả tiếng Việt làm mình khốn khổ chứ chẳng phải chuyện thường . Xin kể thêm vài chữ khó nhớ :

Giôn giốt / giấm giúi / giần sàng ( sảy trấu cho sạch ) / giập giờn ( có thấy dập dờn ) / giắt răng / giằm ớt .

Hai chữ giẵm và dẫm đều có nghĩa tương tự là bước chân lên , đạp lên một thứ gì , nhưng giẵm là vô tình bước nhẹ lên . thí dụ :

" Cẩn thận , kẽo giẵm lên lúa mạ " . " Dẫm " lại mang ý đạp mạnh lên . Thí dụ : " Này , dẫm mạnh lên để hạt bắp rời ra "

Cái lắt léo trong tiếng Việt :

Hai chữ hoàn toàn đối chọi nhau nhưng tùy cách viết trở thành nghĩa giống nhau .Thí dụ :

" Nhờ can đảm nên võ sĩ A đánh thắng địch thủ "

Lại xét câu sau đây :

" Tuy là nước nhỏ nhưng Việt Nam nhiều lần " đánh bại " quân xâm lược .

Như vậy hai chữ " đánh thắng " hay " đánh bại " cùng có một nghĩa là chiến thắng đối phương .

* Hai chữ giống hệt nhau mà tùy cách viết mà trở thành nghĩa đối chọi nhau . Thí dụ :

" Nhìn bản mặt thằng đó thấy dễ ghét quá " . Rồi xét câu sau đây :

" Cái miệng em bé nhỏ xíu trông dễ ghét làm sao " . Đây lại là lời nói yêu , mà câu trước là ghét thật .

Một vài chữ đọc nghe trúc trắc và khó viết : Xin đọc thí dụ sau đây :

" Nó cười ngặt nghẻo với tướng đi ngỏng nghoẻo trên con đường ngoằn ngoèo , bị té nằm khoèo , cổ ngoẹo một bên "

" Cách phát âm và viết không trùng khớp nhau :

Người miền Bắc viết và phát âm chính xác trong việc phân biệt dấu hỏi , ngã và những chữ có phụ âm cuối là c , t , n , ng , ch và phụ âm đầu v , d , . Thí dụ :

các / cát
lườn / lường
chít / chích
chín / chính
vân / vâng
vâng / dâng

Tuy nhiên , những chữ sau đây được phát âm giống nhau nhưng viết thì khác :

xong / song ( x và s cùng phát âm " xờ " cả )
trăng / chăng ( tr và ch cùng âm " chờ " cả )
rừng / dừng ( r và d đều âm " dzờ " cả )

Chữ " gi " trong chữ " giang " " giỏi " đều phát âm là dzang , dzỏi . Có một số người chịu khó uốn lưỡi để phát âm thành " djang " để phân biệt như Cửu Long Djang ( giang ) v . . .v . . .

Thế nhưng , những bài hát thì phải dùng giọng Bắc , tiếng Bắc thì mới thêm tình tứ phải không quí vị . Mình nghe cũng hiểu ngay nghĩa của lời hát , bất kể cách phát âm . Thí dụ :

" Mưa dzừng ơi ! mưa dzừng ! " . Mình biết ngay đó là " Mưa Rừng " không nhầm lẫn với " mưa dừng " . Có một số phát âm ngọng nghịu chỉ nghe thấy trong văn nói , ít thấy trong văn viết đàng hoàng ( thỉnh thoảng có thấy trên internet ) . Thí dụ ;" Nèn cứ nèn , nún cứ nún " kiểu như :

" Hai chị em con Bé còn bé thế mà ló dzụ nàm náng hết , chả lể lang gì ai cả " . Thiểu số này chắc là người vùng quê , ít học .

Nói về cách phát âm sai , người miền Nam sai nhiều hơn vì không phân biệt được những phụ âm vừa nêu trên . Thí dụ : các /cát - chắc / chắt - tít / tích

- chan / chang - hoàn / hoàng . . . v . . . v . . . Còn các chữ sau đây người miền Bắc phát âm phân biệt , rõ ràng : vàn , vàng , dàn , dàng , giàn , giàng . Người Nam thì cái nào cũng " dàng dàng " ráo trọi !

Người Việt hải ngoại và tiếng Việt dùng trong nước :

Trong những năm người Việt bắt đầu về Việt Nam trong sợ sệt và e dè , có bà bạn của gia đình tôi vì có việc cần kíp phải về Việt Nam . Bà kể , bà cẩn thận trang phục cho mình bộ quần áo bà ba cũ kỹ , chiếc nón lá rách và mang đôi dép cũ lẹp xẹp với ý định giấu lý lịch Việt kiều tị nạn và hòa lẫn vào đám đông bình dân . Trong lúc ngồi trên chuyến xe đò về miền tây có người hỏi : " Chị ở ngoại quốc mới về phải không ? " . Bà đâm hoảng , vì làm sao mà " nó " biết ? Hay đây là công an chìm ? hay là tình báo ? Mà ở Mỹ mình là công chức quèn , có " chính chị chính em " gì đâu . Bà chối quanh nhưng người đó cứ bảo " Không ! Tôi biết chị ở nước ngoài về , giấu không được đâu ." Rốt cuộc bà phải thú nhận ở Mỹ mới về lo cho Mẹ đau nặng .

Sau đó bà về Mỹ mang theo nỗi thắc mắc : Làm sao mà " nó " biết , mình có điểm trang lòe loẹt gì đâu . Thật là tài thánh !

! . Tôi nói với bà rằng : Bà ơi ! , theo tôi suy nghĩ thì nó biết là do cách trò chuyện trao đổi của bà . Nếu bà nói chuyện kiểu như : " Tui cố gắng đón chuyến xe sớm nhất để tránh nạn kẹt xe " thì họ biết ngay là bà ở xa mới về . Vì người trong nước nói như thế này : " Tôi tranh thủ bắt chuyến xe sớm nhất để tránh sự cố ùn tắc " . Bà vỡ lẽ à há à há lia lịa : " Vậy mà tui nghĩ hổng ra ! "

Nói về tiếng Việt dùng trong nước hiện nay quí ngài vc chế ra những chữ quái đản : như xưởng đẻ , nhà ỉa , giải phóng mặt bằng ( đuổi nhà chiếm đất thì nói ra cho rồi ) bệnh tiêu chảy cấp , bệnh tay chân miệng , bệnh mò cắn . . .

Lại còn những chữ nghe kêu vang mà không chứa bao nhiêu nghĩa :

Việc chi cũng xử lý , xử lý vợ con , tiền bạc , bạn bè , vật dụng , buôn bán , đồ ăn , nước thải gì cũng " xử lý " ráo ! Sản xuất thì " đại trà " , cái gì to , đẹp thì là " quành cháng " ( hoành tráng ) , ấn tượng . Rồi thì nào là " cá thể" " thông tin " " chất lượng " " tồn tại " . Nhiều , nhiều lắm kể không hết . Có thể nói loại ngôn ngữ này dần dần xâm lấn ngôn ngữ miền Nam trước 75 . Đó là điều đáng buồn . Sau đây xin nêu vài thí dụ loại ngôn ngữ này làm mất đi tính trong sáng của tiếng Việt .

" Vì thức ăn chất lượng kém , hồ cá ông A chỉ còn mươi cá thể " ( con cá thì nói là con cá cho rồi , cá với thể ! ) Đây là ý họ muốn nói từng con cá một . Chuyện gì cũng " khả năng " : " Ngày hôm nay có khả năng mưa " " Khả năng người tuyết có thật " " Trái đất nổ tung là một trong các khả năng " . " Vì tham nhũng học sinh giỏi có khả năng thi hỏng " . Những câu như trên rất tối nghĩa . Lại chế ra những chữ kêu vang như : " Chế Linh lần này về nước hát chẳng qua là khai thác tên tuổi mình một thời tạo được dấu ấn cho một bộ phận người nghe " .Còn câu sau đây nghe thật chói tai : " Khoảng 90/100 động , thực vật , từng tồn tại trên trái đất đã tuyệt chủng " . Tồn tại có nghĩa là thứ gì còn hiện hữu hiện diện cho tới ngày hôm nay . Đã " tồn tại " thì sao là tuyệt chủng được ?

Thật chán , họ cứ tưởng là trau chuốt ngôn ngữ cho trác tuyệt hóa ra là dốt , dốt , dốt ! .

Người viết không kỳ thị một ai cả , dầu biết chắc cách hành văn này của người miền Bắc ( vc ) đem vào Nam sau 75 và đang lây lan sang hải ngoại . Không kỳ thị ngôn ngữ của vùng , miền nào của đất nước , chỉ chê thứ ngôn từ vc sau 75 làm tổn hại ngôn ngữ Việt Nam , mất đi sự trong sáng , văn chương bóng bẩy của tiếng Việt mà đáng ra phải có . Thiết tưởng người hải ngoại không nên bắt chước dùng những chữ này của vc . Người có học không học lóm chữ của kẻ dốt . Vẫn thấy nhan nhản trên báo chí diễn đàn truyền thông của người Việt hải ngoại dùng chữ của vc . Nào là tham quan , giải mã , sơ tán , lon , máy bay tiêm kích , tàu sân bay . .v .v . .

VC. nó nói gì kệ nó . Tiếng miền Nam mình có những chữ như thế để dùng . Sao không viết thăm viếng , giải nghĩa , giảng giải , di tản , cấp bậc . Sĩ quan mình có ai nói là hồi trước tôi mang lon thiếu tá , trung tá , hay đại úy đâu . Sao không nói máy bay nghênh cản , hay chiến đấu cơ , máy bay không chiến . . . thiếu gì chữ để dùng ? . Tụi nó bày đặt không dùng âm Hán tự . Vậy " lính thủy đánh bộ " " đại trà " " vĩ mô " " vi mô " " cơ động " thì là gì , có sạch Hán tự hay không ?

Vấn đề i và y :

Trong nước có quá nhiều " hộc giả tiến sủy " nên có nhiều học thuyết . Có học giả chủ trương nên viết tất cả từ " i " thay thế " y " . Họ viện dẫn ngôn ngữ Việt nguyên thủy từ thời Pháp thuộc . Rồi nào là ngữ âm pháp , âm ký ,ngữ cảm bản ngữ , âm tiết , ghi âm phụ , ngữ âm học . . v . . v .để nằng nặc viết những chữ như sau : nước Mĩ , người Mĩ , li kì , cao kì , nguiễn văn í , uiên bác , khuiên bảo , quiên góp , thuiết minh . . v . v . .

Vậy làm sao giải quyết những chữ như : cổ súy , thanh thủy , uỷ viên , thành lũy . . . Vậy tên người ta là Lê Thụy Anh , phải viết sao đây . Hay lại biện minh là vì đứng sau nguyên âm phải chịu như vậy . Thế thì đổi làm gì cho tối tăm chữ nghĩa ? Kí thì khác với ký chứ ?

Tôi rất ngưỡng mộ và trân quí văn chương Việt Nam , nhất là các tác giả miền Bắc . Trong chúng ta chắc chắn nhiều người cò nhớ đoạn văn sau đây của nhà văn Thanh Tịnh :

" Hàng năm cứ vào cuối Thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc , lòng tôi lại nôn nao nhớ đến buổi tựu trường . Tôi quên thế nào được , một buổi sớm mai hôm ấy , Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp . . . " Và cái sân nó rộng cái mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng . Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ . . . " Hoặc đoạn văn sau đây của Đinh Hùng , êm như thơ :

" Thu năm nay tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ . Những cây liễu đứng rũ buồn như những người cung nữ thời xưa và trong vườn nhà ai thấp thoáng bóng hoa phù dung buổi sớm nở trắng như một linh hồn còn trẻ . Nắng ở đây vẫn là nắng của ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước . Tôi đem lòng về để gặp mùa Thu thương nhớ cũ và may cũng gặp Thu về để nước hồ xanh . Bước chân ai xa vắng ngoài kia hay cũng chỉ là tiếng gió thoảng mong manh . . . "

Ôi , những đoạn văn trong sáng làm rung động lòng người . Bởi thế những bài tập đọc ấy trên nửa thế kỷ rồi mà nhiều người vẫn còn nhớ .

Từ bình dân và phương ngữ :

Tôi là người sinh trưởng ở miền Nam . Nói theo kiểu dân dã là " người Nam gặc " . Không phủ nhận là người miền Nam nói và viết sai chính tả nhiều hơn miền Bắc . Ngay cả chữ " gặc " là phát âm chữ " rặc " tức là rặc ròng không pha trộn không lai căn . Bản thân chữ " rặc " cũng không chắc viết sao cho đúng , vì đây là từ bình dân trong văn nói , ít thấy xử dụng trong văn viết và người miền cực Nam phát âm thành " gặc " kiểu như cá gô . Xin đọc thí dụ sau đây :

" Tui ở Gạch Giá ( Rạch Giá ) tui bắt cá gô bỏ trong gổ nó nhảy gột gột . Con này " bự tổ chảng " con kia " bự chần dần " còn con này là " bành sờ ki " luôn . Cỡ này thêm " ông già chống gậy " là nhậu " quắc cần câu " nhậu " tét ghèn " cho tới "xỉn " mới đã . Gụ ( rượu ) này là " hết xẩy " đó nghen . " Câu này , chữ này chỉ là nghe được trong ngôn ngữ dân dã , thật không biết viết sao cho đúng . Xin kể thêm vài từ bình dân :

Chài bài , thí dụ đống cát , lúa bị chài bài ( chảy ra , chuồi ra , xoạc ra ) Rồi lại có : chành bành , chang bang , chàng ràng , chàng hảng , banh càng

. . .

Màu sắc thì thêm tiếng đệm :

Vàng khè , vàng ưởng ,vàng óng , vàng mơ , vàng ệch . . .
Xanh lè , xanh lét , xanh mét , xanh ngắt , xanh chành . . .
Tím rịm , tím ngắt , tím giắt , tím bầm
Đỏ ké , đỏ lòm , đỏ hỏn , đỏ chét , đỏ dạ , đỏ chót
Đen thui , đen thùi , đen kịt , đen kịn
Trắng nõn , trắng dã , trắng bệch , trắng mét . . .

Lại còn : càm ràm , mè nheo , chèo bẻo , lảnh lót , cà tửng , leo lẻo , lẻo lự , le ngoe , hóc búa , chình ình , thúi ình , thúi hoắc . . . kể không xiết !

Lại còn nhóm chữ này : " Ngủ nướn nằm trườn trườn " không biết viết sao cho đúng . " Nướn " hay là " Nướng " . Có lẽ chữ " nướn " là đúng hơn vì nói trại từ chữ nán ?. Còn nướng thì nóng quá làm sao ngủ . Cũng không chừng mùa hè nóng quá ngủ như bị nướng ? Còn nằm trườn trườn chỉ hành động lăn trở khi ngủ như trườn hay bò nhưng cũng có thể khi nằm ngủ thân thể dài ngoằng nên là " trường " chăng ?. Lại còn dài thòn , dài nhằng , dài thượt . . . Lại còn mướt rượt , láng o , láng lẩy , láng lìn ? Rồi thười lười , tàng hoạc , trớt huớt , xà hoác , xảnh xẹ . . . Ôi thôi , kiểu này phải thua luôn . Tiếng Việt mình đáng yêu biết bao !

Nói về ngôn ngữ địa phương , thời " ở lính " thỉnh thoảng tôi có nghe một số bạn người miền Trung nói : " Con đường thẳng ống đường kiệt " Quả thật rất lạ tai . Có lẽ là con đường cái quan chăng ? Vì là đường cái , quan trọng ( hay dành riêng cho quan chức ) nên thẳng như cái ống ? Đây chỉ là suy nghĩ quẩn quanh của riêng tôi , không chắc là đúng . Lại còn những chữ như : ốt dột , mô ,tê , răng , rứa , chừ nghe dễ thương chi lạ . Kiểu như : " Anh noái rựa em hung ưng mô , cại ni nì " . Đã một thời trái tim tôi rụng xuống giòng Hương giang vì những âm thanh quyến rũ đó .

Vì tiếng Việt của mình phong phú đến độ gần như rắc rối , thế nên theo tôi nghĩ chẳng mấy ai dám tự xưng là mình viết đúng hoàn toàn . Phần tôi chắc cũng không ngoại lệ . Ngay trong bài viết này chắc cũng có sai phạm , nên bài viết chỉ có mục đích trình bày và gợi nhớ mà thôi . Mặc dầu cẩn trọng , tự tin , nhưng tôi chỉ dám hy vọng là mình viết ÍT SAI mà thôi . Được như vậy cũng do tôi nghiền ngẫm học thuộc lòng những chữ có dấu hỏi ngã và cách phát âm của người miền Bắc trong các chữ cuối : t , c , n , ng , i , y , .

Thí dụ : lươn , lương , rún , rúng . . . tai , tay , cai , cay , các , cát . . . .

Bởi vì trong một bài văn có tính nghiêm túc , hay một bài thơ mà viết sai chính tả thì câu , nghĩa muốn diễn đạt một đường lại ra một nẻo khác .

Gần đây ta thường thấy những câu như sau , gọi là ngôn ngữ hiện đại , hại điện : " Phở tiệm X nấu hơi bị ngon " hoặc cô Y hơi bị đẹp " nghe thật ngớ ngẩn . " Bị " chỉ thể trạng phủ định cho một sự việc nào đó như : bị bệnh ( không khỏe ) bị túng thiếu ( không có tiền ) xe bị hư ( xe không tốt ) v . . v. . .Chẳng ai nói " Tui hơi bị khỏe quá " " Tui hơi bị giàu " " Xe tui hơi bị tốt " . Cách nói như thế chỉ có ở người ít học hay bắt chước kẻ ít học .

Không rò ở Việt Nam mình có Viện Hàn Lâm ngôn ngữ hay không và độ khả tín vào các " hộc giả " như thế nào . Bởi nhan nhản mình đọc được nào là : " Anh quản lý đời em , mình tranh thủ khẩn trương lên . Đám cưới phải thật ấn tượng , hoành tráng " Nghe muốn ói !

Tôi trân trọng người đọc bài và góp ý nghiêm chỉnh . Tôi luôn luôn cảm ơn những phê phán xây dựng để học được từ những điểm sai của mình , để không vấp phải lần nữa . Để kết luận , tôi chỉ mong ước mọi người viết ÍT SAI tiếng Việt . Càng ít sai càng tốt . Đó cũng là cách biểu tỏ lòng yêu mến dân tộc Việt , Tổ Quốc Việt và văn hóa Việt .

T .T. MÂY TRÊN NGÀN .( Cánh Thép)