Saturday, February 25, 2012

Tìm Lại Thương Đau


Gãy Súng ... !


Ngày Quân Lực & Người Lính VNCH


Cô Ký Điệu_Một Thiên Nga Gãy Cánh

Viết để nhớ Thiên Nga Nguyễn Thị Hồng Vân và những Thiên Nga đã hy sinh vì Tổ Quốc.
 Lời nói đầu: Trước và sau năm 1975, một số người có nghe đến Thiên Nga và những người trong Ngành, thuộc các đơn vị ở các cơ quan khác nhau, đều biết có một đơn vị tình báo nữ Thiên Nga nhưng hầu hết đều không biết rõ sự hoạt động và hiệu quả của Biệt Ðội tình báo nầy, trừ cơ quan mà đơn vị nầy thống thuộc.
Chúng tôi có biết, thật ra là nghe, những nữ Thiên Nga của Biệt Ðội nầy đã bay khắp nơi, sống cùng mọi tầng lớp từ “thượng vàng hạ cám”, trong giới thượng lưu cho đến lao động cùng đinh, thậm chí xâm nhập các các tổ chức của địch từ nội thành đến các mật khu của Việt Cộng. Nghe thì nghe chứ đa số đều “điếc” vì những cánh Thiên Nga nầy bay vút đâu khỏi trời xanh, trong những vầng mây mù, sương đặc nên trở thành mờ ảo không thấy tâm dạng dù có sát cạnh bên mình. “Khiếp thật!” Một đồng nghiệp người Bắc buột miệng để kết thúc buổi “trà dư tửu hậu” đề cập đến Biệt Ðội Thiên Nga.
Một trong mấy ngày đầu tháng 5 năm 1975, một số tổ công tác của chúng tôi trong Lực Lượng Kháng Chiến Nội Biên hình thành khẩn cấp ngay sau ngày ông Minh, Tổng Thống “bất hợp hiến”, tiếm quyền để buộc các nơi buông súng đầu hàng, giao Miền Nam Tự Do cho bạo quyền Cộng Sản Hà Nội- được lịnh hỗ trợ cho một “đơn vị” thi hành công tác kháng Cộng. Việc hỗ trợ nầy rất đơn giản là rải người, phục xung quanh các ngả đường gần nhà hàng khách sạn Ðồng Khánh trong khu vực Chợ Lớn để khi có biến động thì túa ra, ngả xe dồn đống tạo cản trở sự truy kích của Việt Cộng hầu các Chiến Sĩ Quốc Gia tẩu thoát.
Trong quan sát chính diện, tổ chúng tôi tiếp cận nhìn thẳng nhà hàng Ðồng Khánh từ góc đường bên nầy. Khoảng 9 giờ sáng, một người mặc thường phục nhưng có vẻ chỉ huy bước ra khỏi nhà hàng với 2 người dường như là tùy tùng đứng ngay góc đường chờ chiếc xe du lịch do một bộ đội lái từ từ trờ tới. Với cặp mắt trong nghề, chúng tôi thoáng thấy một cô gái khá đẹp ngồi trên chiếc Honda Dame đã nổ máy ở lề đường cùng chiều, lướt lên, qua khỏi góc đường, không cần quay đầu và với kiếng chiếu hậu, cô đưa ngược tay về sau với khẩu súng nhỏ. Chỉ một tiếng nổ khô khốc, tên xếp ngã gục ngay lề đường khi xe rước vừa đậu lại vì viên đạn đã xuyên vô đầu. Những tên tùy tùng sững sờ lo vực xếp lên, cô gái đã vặn thêm ga và chiếc honda vọt đi, quẹo vào con đường nhỏ và mất hút, trong khi bọn Việt Cộng hốt hoảng loay quay không báo động kịp thời nên chúng tôi chỉ dạo chơi trong một ngày quang đảng. Sau đó, chúng tôi được cho biết “đơn vị” đó là một nữ Thiên Nga đơn độc hạ một tên Tướng tình báo của Việt Cộng vừa từ Hà Nội mới vào. Chúng tôi chỉ lập lại hai tiếng của anh bạn trước đây: “Khiếp thật!”
Và rồi sau đó, suốt công tác rủi dong từ Miền Tây, đến Miền Ðông, lên Cao Nguyên, trong bao lần nhập nội thành, và trước khi sa vào tay giặc, chúng tôi có ít nhứt hai lần được sự tiếp trợ của nữ Thiên Nga và trong đó một lần đau xót “tuân lịnh Thiên Nga” ban chỉ huy rút thoát để hai cánh Thiên Nga (một đã bị thương) ở lại cản hậu và hy sinh tại một địa điểm trên đường Nguyễn Tri Phương. Những oai hùng của những trang liệt nữ nầy ai biết?! Những hy sinh của các Chiến Sĩ Quốc Gia hoạt động âm thầm, ở lại kháng Cộng trong lòng địch và chấp nhận tự sát, những bản án tử hình, những tra tấn tù đày trong các xà-lim, trong các trại tập trung có còn ai luyến nhớ hay không!? Riêng phần chúng tôi, vừa biết nhau thì lực lượng ngoại thành đã mang một món nợ không nhỏ với những cánh Thiên Nga.
Cầm trên tay cuốn Ðặc san Phượng Hoàng Xuân Bính Tuất 2006 của Tổng Hội Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, với bài của Chị Nguyễn Thanh Thủy, một Thiên Nga đầu đàn của Biệt Ðội, viết về “Cô Ký Ðiệu” -Thiên Nga Nguyễn Thị Hồng Vân- làm tôi buồn nhớ đến một người em, người em gái không hơn không kém, chưa một lần chào hỏi câu nào khi chạm mặt, mặc dầu đã biết nhau ở những năm dài. Nhưng chắc chắn có điều là tôi hoàn toàn không biết đó là một đồng nghiệp ở khác đơn vị, nhứt là Biệt Ðội Thiên Nga, và chúng tôi chỉ biết sau khi Thiên Nga nầy bị tù rồi trở về bởi những tài liệu mà chúng tôi cần phải biết. Do những liên quan trước và “dự trù liên quan” sau nhưng thất bại vì… địch đã ra tay trước, tôi càng nhớ đến những Thiên Nga đã gẫy cánh, nhớ nhiều đến “Cô Ký Ðiệu”: một cô bé…
**
Thiệt tình mà nói, trong khu xóm nầy không ai nhớ là gia đình một mẹ với ba con về đây từ lúc nào. Mướn một căn nhà ọp ẹp cuối ngõ, một phần năm gác lên nền đất, bốn phần chính còn lại là ván sàn, vách tôn mái lá, nằm chông chênh trên một tẻ rạch ngắn của con sông phía sau Viện Nhu Ðạo Quang Trung, gần Cầu Sắt hơn là cầu Xa lộ Phan Thanh Giản, người mẹ được gọi là Bà Thợ Thêu, vì không cần biết tên thật của bà, bởi bà tối ngày lui cui thêu mướn những vải hàng mà bà lãnh về để kiếm tiền nuôi con ăn học. Hai người con gái lớn và một đứa con trai. Người chị lớn tên Hồng Vân, em kế là Hồng Ðào, còn đứa trai nhỏ thì hầu như ít ai để ý tới.
Với dáng người mảnh khảnh, ốm cao vừa phải, Hồng Vân với dung nhan thùy mị duy nặng nét trầm tư sắc lạnh. Người ta chỉ thấy Vân đi học rồi về lầm lủi không buồn nói tới ai dù một câu chào hỏi. Thanh niên trong xóm nhìn nét mặt lúc nào cũng nghiêm nghị nên chẳng đứa nào dám chọc ghẹo và nghĩ chắc cô ta mặc cảm nhà nghèo. Chẳng bù với cô em Hồng Ðào cũng cao ráo, sắc nét hơn, khá đẹp, thường tươi cười trò chuyện với trang lứa quanh nhà.
Cũng vì nhà nghèo, không có tiền bắt đường nước vào nhà, đêm đêm Hồng Vân chờ gần nửa đêm đường xóm vắng người mới quảy đôi thùng đi ra gần đầu xóm có một phông-tên nước công cộng bốn vòi để hứng nước gánh về cho cả nhà sử dụng trọn ngày hôm sau. Ðám thanh niên lại nghĩ cô nàng mắc cở nên phải chờ tới khuya mới đi gánh nước. Tôi cũng có để ý, nhìn đôi thùng nước nặng 40 kg trĩu quằn nặng trên đôi vai còm cõi của cô với khúc đường khá xa mà lòng cảm thấy xốn xang. Ðôi lần hình như tôi muốn nói gì đó nhưng lại thôi vì sợ hiểu lầm. Và sự thể cứ hoài vậy nên mọi người thấy quen, chẳng mấy người quan tâm nữa.
Tôi lại chọn thêm môn bên Văn Khoa nên những lúc rỗi rảnh và có giờ học, từ cơ quan đi bộ qua trường Ðại học Văn Khoa nằm trên đường Ðinh Tiên Hoàng, và lại gặp Hồng Vân ôm mấy sách vở thong dong ở sân trường. Chạm mặt, tôi khẻ nghiêng đầu chào toan hỏi thăm thì Hồng Vân cũng nhẹ nhàng cúi đầu, chớp mắt, hơi cười xếch rồi lảng đi vào các dãy lớp. Tôi mất hứng, nhún vai bảo thầm trong bụng: “Cô bé con nầy khá kiêu kỳ, cứ như tiểu thư đài các”. Và bao lần nữa cũng thế!
Rồi vì công tác, tôi không thường xuyên ở Saigon nên cũng chẳng buồn nhớ đến những gì không liên quan, không đáng nhớ. Và tôi chắc mọi người trong khu xóm cũng không để ý đến cô nàng nầy nếu… không có những ngày sau 30 tháng 4 năm 1975.
Khi Việt Cộng chiếm được Miền Nam Việt Nam, chúng buộc các viên chức, sĩ quan của chế độ VNCH phải đi “trình diện học tập”. Các công chức có cấp, Cảnh Sát Quốc Gia, Sĩ quan Quân Ðội lũ lượt ra đi là cái lẽ thường của những người “bại trận (!)”, nhưng sau đó người ta không thấy bóng dáng Hồng Vân đâu cả?
Miền Nam bị cướp phá, Saigon bị xác xơ thì còn mấy ai vui thú hay có tiền bạc đâu mà se sua trang trí nên Bà Thợ Thêu đã không còn thêu may nữa. Trong xóm và ở các nơi lân cận vùng Dakao, Tân Ðịnh, Thị Nghè,… người ta thấy Bà “Thợ Thêu” quảy hai chiếc thúng có các bình và chai đựng nước mắm để bán nước mắm lẻ ở những khu lao động. Tóc bà đã nhuốm bạc, trắng lớp hai mang tai, nước mắt lúc nào cũng lưng tròng sầu tư với gánh nặng quằn vai trên đôi dép bẹp dí rảo chân đi kiếm chút đỉnh tiền trong xã hội hoang tàn hầu nuôi hai đứa con còn trẻ dại và… lâu lâu gắng thăm nuôi người con gái lớn, Nguyễn Thị Hồng Vân, bị Việt Cộng giam giữ trong Trại Tập Trung vì tội là Sĩ Quan của Việt Nam Cộng Hòa.
-“Ủa, cô Vân đó là sĩ quan của mình hả? Ai mà biết! Giỏi thật!” Ðó là câu của mấy bà hàng xóm kháu nhau khi biết cô gái đi tù với giọng cả nể. -“Ê mầy, chị đó là sĩ quan Quốc Gia đó. Tụi mình đâu thấy chỉ mặc đồ lính. Lúc trước mà ẩu tả chọc ghẹo tầm bậy thì thấy mẹ rồi. Sĩ quan là có võ đó mà đàng hoàng quá!” Bọn thanh niên trong xóm bỏ nhỏ, kể những tay đã đi lính đều đề cập trong niềm cảm phục. Sự nể phục cô gái đã đi tù cũng biểu lộ đối với người mẹ nghèo khổ cùng hai đứa em trong ngôi nhà rách nát.
Trong chốn lao tù, trong những Trại Tập Trung khổ ải của Việt Cộng, tánh tình của Vân cũng như thuở nào. Thâm trầm, nhũn nhặn, không bon chen tranh giành như số ít người trong tù bắt đầu chuyển tánh, Hồng Vân vẫn dành những thâm trầm đó để một mình suy tư những gì mà chỉ riêng mình biết. Những lúc đó, Vân mân mê gọt dũa móng tay khiến bạn bè xung quanh nghĩ rằng vô tù rồi mà cũng còn điệu đàng, làm đẹp. Và cái tên “Cô Ký Ðiệu” được bắt đầu.
“Cô Ký Ðiệu” cũng làm đơn giản sự phân biệt vì thời gian đó trong tù có hai người đều mang tên Hồng Vân. Cô kia là Trần Thị Hồng Vân, một sĩ quan của Trường Nữ Quân Nhân; cô nầy họ tên trọn vẹn là Nguyễn Thị Hồng Vân, một nữ sĩ quan của ngành Cảnh Sát. Hồng Vân “Trần” và Hồng Vân “Nguyễn” quá dài dòng hơn một người được đặt tên “Ký Ðiệu”.
Khoảng ba năm hoặc hơn, “Cô Ký Ðiệu” được tha về nhà thì khu xóm mới biết rõ ràng hơn cô là một nữ sĩ quan thuộc Cảnh Sát Quốc Gia mà cái bà An Ninh Tổ Dân Phố xầm xì ra vẻ: “Con nhỏ đó không hiền đâu. Nó là tình báo đó. Xê-I-A… Thiên Nga gì đó.” Mọi người lại quan tâm, thương hại với ánh mắt nhìn thán phục. Hồng Vân thì chẳng màng đến những cái chung quanh. Cô vẫn như ngày nào, lo phụ giúp mẹ và em những việc trong nhà, không giao du cùng ai khác.
Ðơn vị khu vực ở nội thành đã bắt đầu ngắm nghía cánh Thiên Nga nầy, muốn móc nối nhưng quá nhiều khó khăn. Chúng tôi không có hấp tấp trong việc nầy bởi những ghi đậm về tài năng, lòng kiên cường, chấp nhận hy sinh của những cánh Thiên Nga đã gặp nên hoàn toàn tin tưởng công việc móc nối cho hoạt động nội thành. Khó khăn thứ nhứt là sự kiểm soát an ninh của Việt Cộng đối với các tù nhân đã được thả về. Cái thứ hai là không biết cô ta có tin chúng tôi hay không. Vì địch đã tạo ra một thế nghi kỵ lẫn nhau, khó ai tin ai, và đã sử dụng những cái bẫy “tổ chức chống Cộng” giả để bắt thêm hoặc bắt lại những con người có tinh thần tranh đấu cho Quốc Gia rất nhiều. Vì thế, tôi lại phải có dịp nhập nội thành cùng với hai cận vệ.
Với “mác báo chí”, không chấp nhận trình diện (đi tù) khi có lịnh, thoát ly gia đình với sự truy tầm của an ninh Cộng Sản từ lâu, tôi tin chắc khi trở về là cô đã biết. Biết và quen nhau thì hy vọng sẽ dễ dàng hơn. Nhưng… mấy lần toan tính đều bất thành vì sau lưng cô là những “cái đuôi” bám rất kỹ. Riêng tôi thì với thân phận của mình nên phải kỹ càng hơn. Và rồi chúng tôi thêm nóng lòng, sốt ruột bởi những tin tức được báo cáo…
Trong mặt trận tình báo, địch có thể gài người bên ta và ta cũng có gài người bên địch. Nhân viên xâm nhập của ta cho biết tình trạng của “Ký Ðiệu” khá nguy nan. Bởi thời gian trước ngày mất nước, Thiên Nga “Ký Ðiệu” có nhiệm vụ xâm nhập vào các tổ chức sinh viên học sinh, phụ nữ tranh đấu chống đối chính quyền để săn lùng những tên cán bộ Việt Cộng nằm vùng điều khiển. Rất nhiều thành công với hàng loạt cán bộ VC trong các giới đã bị lực lượng an ninh ta tóm gọn. Nay Hồng Vân trở về trong sự tức tối của bọn sinh viên nằm vùng, nhứt là đám ở Ðại học Luật Khoa Saigon nay dưới trướng của Trung Tá VC Ba Sơn tức Luật sư Nguyễn hữu Cảnh và Thiếu Tá VC Huỳnh bá Thành tức Họa sĩ Ớt ở Phòng Bảo Vệ Chính Trị – PA16. Bọn chúng gay gắt lên án “Ký Ðiệu” là một tên tình báo “nguy hiểm ác ôn”, đánh phá “cách mạng” rất nhiều nên cần phải triệt hạ. Sau nhiều lần hội họp, bọn chúng quyết định ra tay, phương án được soạn thảo và tiến hành.
Chúng tôi được tin càng nôn nao lo lắng. Dự tính gắng liên lạc để báo tin hoặc tạo dịp ép buộc, bắt cóc “Ký Ðiệu” rời khỏi nội thành và theo chúng tôi trở về cao nguyên. Nhưng… lại cái “nhưng” quái ác khiến kế hoạch bất thành bởi địch đã ra tay trước một cách lộ liễu và dã man!
Vì ở tù về phải lên xuống trình diện an ninh, trong sự quản chế nên “Ký Ðiệu” của chúng ta không đi làm đâu được để phụ giúp gia đình. Cuối cùng, Vân xin và được nhận đi dạy thí công “xóa nạn mù chữ” ban đêm ở một trường học gần cầu Thị Nghè. Việc dạy học nầy cũng làm Công An VC khó chịu và nghi ngờ. Dạy học là tiếp xúc với một số người, “xóa nạn mù chữ” là tiếp xúc với nhiều thành phần, tuổi tác. Biết đâu, không khéo kiểm soát thì địch có thể liên lạc, chuyển tin, báo cáo những bất lợi cho “cách mạng”. Thiên Nga mà! Nguy hiểm lắm! Tiến hành phương án đã định.
Một sĩ quan an ninh VC đảm trách thi hành trực tiếp. Thông thường theo đúng giờ xong lớp, Hồng Vân lên xe đạp đi về kẻo mẹ trông thì tên sát thủ mặc sắc phục trên chiếc honda 67 xoáy nòng phóng nhanh xuống dốc cầu Thị Nghè, cuối đường Hồng Thập Tự sau Thảo Cầm Viên, đụng thẳng mạnh vào chiếc xe đạp mong manh mà Hồng Vân đang cởi đạp từ từ. Chiếc xe đạp gãy cong, Hồng Vân té văng xuống lề bất tỉnh. Vài người trông thấy nhưng không biết rõ tình trạng cô giáo ra sao, sống chết thế nào, vì đèn đường khúc đó thường mờ tối. Mấy người chưa qua cơn hoảng hốt, vì thấy Công An là sợ rồi, thì có xe cứu thương chạy tới khiêng xốc cô giáo và bỏ chiếc xe đạp còng queo lên xe cùng tên sát thủ chạy sau thẳng hướng Saigon. Mọi người mừng rỡ bảo: “May quá! Sao có xe cứu thương tới liền… Chắc hổng sao.”
Trời gần khuya, Bà “Thợ Thêu” không thấy Hồng Vân về nên lo lắng, cùng con gái kế Hồng Ðào đi bộ kiếm tìm. Tới gần khu trường học hỏi han thì biết có một tai nạn đụng xe ban tối và có xe nhà thương chở đi rồi. Hai mẹ con quày quả kiếm xe lên Tân Ðịnh hỏi nhà thương thì không có, ra bịnh viện Saigon thì cũng được trả lời là không. Do đó cả hai người trở về lên Phường Công An báo cáo.
Vầng mây đen lại phủ trên lên căn nhà bất hạnh! Suốt mấy ngày, bà mẹ bỏ buôn bán thẩn thờ đi tìm con, về nhà gục đầu rũ rượi, mất thần kêu gào tên con gái!
Sáng ngày thứ tư, nhựt báo “Saigon Giải Phóng” loan tin với tít “Một người chết trở về” với nội dung một gia đình tương đối khá giả có người “con gái” bị tai nạn đụng xe chết, đã đem xác về làm ma chay và hỏa thiêu cấp tốc xong thì hôm sau người con gái đó lại trở về. Cô ta bảo là đi chơi với bạn vài ngày chớ đâu có chết. Gia đình cô gái đó lại làm tiệc ăn mừng. Vậy xác “cô gái” kia là ai?
Ðược tin nầy, hai mẹ con khốn khổ đi ra nhà báo hỏi tin, có địa chỉ của gia đình được đề cập để tìm đến. Họ đã nhận xác từ nhà thương Saigon và đinh ninh là con của họ nên đã làm đám và hỏa táng. Trở lại bịnh viện Saigon hỏi han và năn nỉ, hai mẹ con được một lao công trong đó mủi lòng lén lút đưa đôi dép của người bạc số đêm hôm đó. Ðôi dép của Hồng Vân! Bà “Thợ Thêu” chỉ gào lên tiếng “Con” rồi ngã lăn bất tỉnh. Hồng Ðào chỉ còn nước kêu xích lô nhờ đưa mẹ lên xe chở về.
Hôm sau, khi tỉnh dậy, bà lại cùng Hồng Ðào đi tới gia đình hôm trước, xác định đó là con gái của bà, cảm ơn sự tang ma và xin hủ đựng tro cốt đã hỏa thiêu để mang về thờ cúng. Gia đình nọ bảo theo tục lệ của “dòng họ” nên sau khi hỏa táng, tro cốt đã mang ra đổ xuống sông Saigon để trôi ra biển (?). Một cơn ngất lịm đến với người mẹ khổ đau, và người em gái Hồng Ðào cũng sờ sửng chẳng còn hồn. Tất cả rồi lặng yên. Lặng yên trong câm nín của một gia đình có người con làm sĩ quan “Ngụy”. Hồng Vân đã bị giết, xác thân tro cốt cũng bị hũy đi không còn tăm vết!!
Người mẹ quá khổ đau đã gục ngã, suốt ngày chỉ khóc than ấm ức chẳng nên lời, không còn nước mắt vì cặp mắt đã khô tròng như dòng sông đã cạn. Mọi sự khiếu nại, kêu oan chỉ hoài công vô vọng với những nạt nộ dọa hăm là không chứng cớ. Tất cả phải cam chịu! Bà biết riêng bà, và không những chỉ riêng bà hay gia đình bà chịu cảnh tang thương mà còn nhiều, sẽ còn nhiều gia đình của những người Quốc Gia phải hứng trọn những đòn thù của những “người” được gọi là chiến thắng.
Rồi người ta không thấy đứa con trai út đi về đâu, không biết Bà “Thợ Thêu” trôi dạt sống chết nơi nào. Thỉnh thoảng chiều chiều, có người thấy cô em tên Hồng Ðào đi thơ thẩn ngoài đường, da xanh xao nhưng khuôn mặt trái xoan vẫn còn xinh đẹp. Hồng Ðào đi đi, nhìn trời nhìn đất rồi cười cười nói nói riêng mình. Người ta đau xót lắm! Nhìn thấy phải ráng đi khỏi thật nhanh, mím chặt môi cố ngăn dòng nước mắt cứ chờ chực lăn trào… và như thế coi chừng gánh họa.
Có người nói cô Ðào đã bị bịnh tâm thần, cứ lang thang đây đó cả ngày lẩn đêm. Trên những con đường vắng, trong những con hẽm tối tăm với nhan sắc dễ nhìn, Ðào thường bị những phần tử bất lương, không còn nhân tánh làm xằng bậy chẳng chút tội tình. Tới lúc nào đó, người ta không còn thấy bóng dáng người em Hồng Ðào xinh đẹp, cũng như Bà mẹ “Thợ Thêu” đau khổ suốt đời và người em trai nhỏ còn khờ dại của một Thiên Nga Nguyễn Thị Hồng Vân đã gãy cánh trong căm hờn tức tưởi!!
Chợt nhớ chợt thương, tôi mong những nén hương lòng trên những dòng chữ luyến lưu nầy được tỏa đi, bay bổng, lên cao, cao vút vào cõi mông lung đến tận nơi vĩnh hằng có em đang ngự. Tôi muốn nói với em rằng, Nguyễn Thị Hồng Vân, một Thiên Nga gẫy cánh, dù gần ba mươi năm qua nhưng mọi người vẫn nhớ, người chỉ huy em vẫn nhớ, anh vẫn nhớ với dáng dấp cao gầy của em, cong chịu sức nặng đong đưa của đôi thùng nước như mới ngày nào. Mong em ra đi thanh thản và linh thiêng phù hộ những người Chiến Sĩ Quốc Gia giữ vững lòng tin phải có ngày khôi phục lại một đất nước tang hoang, gầy dựng lại một Quốc Gia Việt Nam bền vững phú cường.
Và mượn cuối lời, chúng tôi, mong đợi ở người Chị Cả Thiên Nga cùng Biệt Ðội chọn một ngày giỗ chung cho những Thiên Nga đã gẫy cánh. Chừng đó để chúng tôi, và cả chúng ta, có dịp cùng nhau thắp vài nén nhang đứng trước bàn thờ với bao hương linh của những Anh Thư Liệt Nữ chứng giám sự sắt son thề nguyền không bao giờ phản bội máu xương của của các anh chị em đã hy sinh vì đại nghĩa, vì Tổ Quốc và Dân Tộc. Cũng chừng đó, chúng tôi có dịp tạ lễ ghi ơn những Thiên Nga mà chúng tôi đã trót mang món nợ cũng khá nặng nề đó là đất nước. Chân thật. 

Lê Tường Vũ   

Vành Khăn Tang Tổ Quốc


Tuesday, February 21, 2012

Dĩ Vãng !



Em một thoáng nào qua đời tôi,
Trên dòng dĩ vãng đã xa trôi,
Nhưng hoài hiện hữu trong ký ức
Dẫu sợi tóc đời có phai phôi ...

Em là dĩ vãng của ngày qua,
Đọng trong giọt lệ ... mi nhạt nhòa,
Kiếm tìm ký ức ... Tôi chợt biết,
Chút gì trống vắng ... mãi xót xa !

Em bước vào yêu quá vội vàng,
Hay tôi vội vã để vương mang,
Hay dòng dĩ vãng nghiệt oan đó,
Cuốn lấy đời em ... mộng dở dang !

Em quá khứ hay tôi là dĩ vãng,
Trên dòng đời xuôi chảy với thời gian,
Rồi mai đây khi ngày tháng phai tàn,
Mình ngoảnh lại ngỡ ngàng ... ôi dĩ vãng !

Khi tiếc nuối là nhớ về dĩ vãng,
Trên dòng đời lặng lẽ xa mờ xa,
Còn lại chăng trên mi mắt nhạt nhòa,
Hình bóng cũ cho ta hoài thao thức !

Thời gian ơi ! Làm sao quay trở lại ...
Đưa ta về ngày tháng tuổi thơ ngây,
Chưa biết yêu ... không vướng khổ đau này,
Nếm vị đắng, men cay ... bờ môi ngọt !

Nụ hôn xưa ngọt ngào, thơm hơi thở,
Sao bây chừ cay đắng, mặn bờ môi,
Em thốt chi lời hờn trách xa xôi,
Để ray rức trong tôi từ đêm ấy ...!

Em cất giữ niềm đau trong tiềm thức,
Để nhớ hoài bằng giọt lệ trong tim,
Tháng ngày vui đã mất ... biết sao tìm,
Khi mộng ước đã chìm vào dĩ vãng !

Em hiện hữu nơi vùng trời quên lãng,
Và âm thầm ngự trị trong hồn anh,
Ngàn thu sau dù lá úa xa cành,
Dòng tiềm thức ... cuộc tình xanh đẹp mãi.

Em một thoáng nào đến trong tôi,
Tình chưa hiện hữu đã phai rồi,
Bàn tay nhỏ bé sao giữ được,
Giữ chăng ... dòng lệ nóng bờ môi !

Đem lời cay đắng ghép vần thơ,
Ngàn mũi dao đâm quá hững hờ,
Vội trách nhau chi ... người yêu hỡi,
Để những vết sầu lỡ giấc mơ.

"Em là dĩ vãng cuộc đời anh ...,
Kể từ đêm đó ..." nỡ sao đành ...
Lệ loang giấc ngủ ... lòng tê tái,
Em là dĩ vãng ... phải không anh !

Anh đã cho em những muộn phiền,
Em mang cất giữ ... góc sầu riêng,
Tận đáy tâm hồn trong tiềm thức,
Một kỷ niệm buồn ... sầu triền miên !

Em cảm ơn anh trong cuộc đời,
Bên nhau ngày tháng bước chơi vơi,
Chưa lần ngụp lặn hòa nhịp thở,
Môi quyện tìm môi ... đã buông lơi !

Ta đến với nhau ... cuộc đời này,
Dù chưa giây phút nồng ngất ngây,
Chưa lần ngây dại trong ánh mắt,
Chưa uống men tình ... lệ đã cay !

Feb 21, 2012
Hoàng Nhật Thơ


Saturday, February 18, 2012

Nỗi Nhớ Khôn Nguôi

Đã hơn 37 năm rồi mà tôi vẫn không quên được những kỷ niệm êm đẹp của tôi và đứa em “cột chèo” ở miền Trung, nơi quê hương có núi Ấn, sông Trà.


Tôi là người Nam, ở miền biển mặn gần Vũng Tàu, đến tuổi lớn khôn, đi lính, phiêu bạt ra miền Trung và cưới vợ ở “ xứ kẹo mạch nha”- Quảng ngãi. Vợ tôi vào Nha Trang để đi học. Lúc tôi còn là Sinh Viên Sĩ Quan ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân đã vướng phải lưới tình của cô gái Quảng “pha” Nha Trang và đã yêu nàng tha thiết! Lúc ra trường, tôi được ưu tiên chọn nơi phục vụ tại xứ biển nầy.

Sau 2 năm ở Nha Trang, trời xui khiến tôi đổi ra trấn”Ải Địa Đầu” của lính tàu bay là Không Đoàn 41 – Đà nẳng. Nàng theo tôi trở về quê cũ, thật đúng là duyên nợ!
Đứa em “cột chèo” của tôi tên là Châu Đình Phúc, sĩ quan phòng 3 của Sư Đoàn II Bộ Binh ở trại Hoa Lư – Quảng ngãi. Phúc cưới cô em vợ của tôi tên Ái Phương lúc cô nầy mới đúng độ “ trăng tròn lẻ”, xinh đẹp, dễ thương và còn đang đi học. Sau Ái Phương, còn 2 nàng nữa tên Thủy và Liễu. Lúc tôi cưới vợ tôi thì Phúc và Phương đã có 2 đứa con gái tên Lệ và Tuyền. ( Hai tên nầy ghép lại thành Lệ Tuyền có nghĩa là suối lệ!! ). Hỏi nhau mới biết, tôi và Phúc cùng thụ huấn tại “Quân Trường Mẹ”- Trường Bộ Binh Thủ Đức. Phúc học khóa 18. Tôi học khóa 19, được tuyển chọn qua Không Quân.

Phúc có tầm vóc trung bình, cao khoảng 1m65, tóc hót cao, khuôn mặt rắn rỏi, kiên nghị, nhưng Phúc rất vui tính. Điểm đặc biệt là Phúc có một cái răng vàng. Tôi nhớ lại trong Nam ở thập niên 60, trai gái miền quê hay bịt một cái răng vàng để làm tăng thêm sự duyên dáng cho nụ cười. Bởi vậy nhạc bản “Khúc ca ngày mùa” của nhạc sĩ Lam Phương bị các cô, các cậu sửa lại câu đầu để ca, chọc quê nhau: “ Cười lên đi cho răng vàng sáng chói!”. Điểm đặc biệt thứ hai là tôi chưa bao giờ thấy Phúc mặc đồ “civil”, hầu như nó mặc quân phục suốt ngày.

Phúc cùng tuổi với tôi, nhưng luôn xưng hô bằng em với tôi rất ngọt. Vì gốc người Quảng Trị và hay nói nhanh, nhiều khi tôi ngơ ngẩn sau câu nói của Phúc và bảo nó lập lại. Nhớ lúc từ Phi Đoàn 114 ở Nha Trang đổi ra Phi Đoàn 110 - Đà Nẳng, hôm nọ bay yểm trợ cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 54 ở vùng hỏa tuyến, khi liên lạc máy vô tuyến với cánh quân thuộc đơn vị Nhảy Dù, anh hiệu thính viên người Quảng Trị “gởi công điện” mà tôi nghe không được, yêu cầu anh ta lập lại nhiều lần. Cuối cùng đơn vị bạn phải tìm một anh hiệu thính viên khác thuộc dân “nam cờ” chánh tông liên lạc với tôi. Trước khi bàn giao nhiệm vụ, anh hiệu thính viên Quảng Trị nói với tôi:

_ Bạn ơi! Tôi đã tìm ra người xứ bạn để nói chuyện với bạn cho dễ hiểu!

Phi Đoàn 110 có một biệt đội ở Quảng Ngãi gồm 3 phi cơ L19 để bay yểm trợ hành quân cho Sư Đoàn II Bộ Binh và Tiểu Khu Quảng ngãi. Nhân Viên Phi Hành của Phi Đoàn luân phiên nhau đi biệt phái, mỗi kỳ là 15 ngày. Lần nào tới phiên tôi đi Quảng ngãi, tôi cũng xin phép ở lại cả tháng, có khi 2, 3 tháng. Sau một ngày làm việc, chiều nào tôi cũng cùng Phúc và người anh bà con chú bác của vợ tôi, tên Bích đi uống bia ở những quán nem nướng trên đường Võ Tánh hay những quán nhậu gần đầu cầu sông Trà Khúc. Thỉnh thoảng, ba anh em lái xe “ jeep” xuống tận sông Vệ ăn mì Quảng. Có khi tôi đi nhậu với anh em đồng đội của Phúc ở Trại Hoa Lư. Khi “ tửu nhập tâm như hổ nhập lâm”, họ thường thách nhau cụng đầu để tranh chức..vô địch ( Chơi trò gì kỳ cục quá!). Phúc luôn giữ chức vô địch vì đầu nó quá cứng. Tôi ngồi nhìn họ cụng đầu nhau mà cười chớ không nhập cuộc.

Có khi tôi và Phúc đối ẩm với nhau, không có bạn bè nào khác ngồi chung, Phúc thường tâm sự với tôi là nó muốn xin ra tác chiến. Tôi hỏi nó có chuyện gì buồn không? Nó trả lời:

_ Em không có chuyện gì buồn cả, nhưng em thấy bạn bè em gian khổ ngoài chiến trường mà mình ngồi văn phòng hoài em cảm thấy mình hèn quá!

Tôi khuyên Phúc:

_ Chiến đấu thì ở vị trí nào cũng là chiến đấu, miễn sao tinh thần của mình luôn tích cực với nhiệm vụ. Cấp chỉ huy đã cắt đặt Phúc ngồi ở phòng 3 chớ đâu phải mình cầu xin hay mua chỗ ấy đâu mà hèn. Em hãy bỏ ý định mạo hiểm ấy đi, vợ trẻ, con thơ đang cần Phúc ở gần chúng nó.
Phúc không nói thêm nữa, mắt nhìn xa xăm nghĩ ngợi. Trong ánh mắt ấy, tôi đọc được niềm ước mơ tung hoành nơi chiến địa cho thỏa chí tang bồng. Tôi thương Phúc như tình đệ huynh ruột thịt vì tánh tình của nó cương trực, biết lo cho gia đình, đối xử với bạn bè chân thật, đậm đà tình nghĩa. Tôi thương Ái Phương như đứa em gái của tôi vì nó rất đoan trang, phúc hậu.

Trong thời chinh chiến, có biết bao thiếu phụ chít khăn tang, khóc chồng trước cảnh tử biệt sinh ly, duyên tình gãy đổ nửa chừng xuân. Tôi không muốn nhìn đứa em vợ của tôi và đàn cháu thơ dại, tóc xanh chưa vướng bụi đời phải sớm chuốc lấy nỗi khổ hận, đau thương khi Phúc xông pha ra chiến trận và không bao giờ trở lại. Nhưng, Phúc xem thường chuyện tử sanh. Nhiều lần nó nói với tôi:

_ Nếu một mai em bị lọt vào tay Cộng Sản, em sẽ tự sát hoặc là kháng cự cho chúng nó bắn em chết chớ không để chúng nó dẫn em đi.!

Tôi trấn “Ải Địa Đầu” của Không Quân được 2 năm thì về miền Nam đầu quân vào Phi Đoàn tân lập 122 theo đà phát triển của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa từ cấp lớn nhất là Không Đoàn tăng lên cấp Sư Đoàn.

Kễ từ đó, tôi xa đứa em cột chèo và miệt mài với nhiệm vụ bay yểm trợ hành quân khắp miền đồng bằng sông Cửu Long và chiến trường ngoại biên Campuchia. Ba năm sau, tôi xin phép đặc biệt, đưa vợ con về thăm cha mẹ vợ tôi ở Quảng ngãi. Tôi vui mừng gặp lại Phúc. Nó đã được thăng cấp Đại úy như tôi và đã ra đơn vị tác chiến là Tiểu Đoán 1/5 thuộc Sư Doàn II Bộ Binh, với chức vụ Tiểu Đoàn Phó.

Mừng ngày tái ngộ, Phúc lái xe chở tôi cùng 5 anh em đồng đội của nó đi ăn nhậu, hết quán nọ, sang quán kia. Sau đó, Phúc chở tôi ra thăm hậu cứ Trung Đoàn của nó ở Tuần Dưỡng. Phúc lấy cái nanh heo rừng bọc trong túi vãi đỏ, có dây để đeo vào cổ cũng màu đỏ, đặt trên cái trang thờ trong phòng của nó, trao cho tôi và nói:

_ Em “chuộc” cái nanh heo rừng nầy với giá 2 chỉ vàng để dành tặng anh vì em đi hành quân, thấy phi cơ L19 mỗi lần bay thấp,xuống, bị Việt Cộng bắn dữ lắm, không biết phi công có nghe súng nổ hay không chớ tụi em dưới đất thường nghe loại súng phòng không 12 ly 7 nó bắn rát lắm! Anh đeo cái nanh nầy để làm bùa hộ mạng vì đạn và lửa sẽ tránh anh!

Tôi cầm cái nanh heo rừng ngắm nghía và nhớ lại huyền thoại của nó do môt bậc chú, bác của tôi kễ: “Cái nanh heo rừng chỉ linh nghiệm khi nào con heo già nua sắp chết, nó đánh vào gốc cây khô cho đôi nanh ghim sâu và gãy trong đó để giấu báu vật của nó. Sau đám cháy rừng, người nào ( biết rõ chuyện linh nghiệm của nanh heo rừng ) thấy một gốc cây và cỏ chung quanh không bị cháy thì sẽ lấy được cái nanh quý. Những cái nanh khác thì không có sự linh nghiệm”. Tôi nghĩ đến Phúc phải xông pha ngoài mặt trận, trước lằn đạn của quân thù, cần có một chiếc nanh quý để hộ thân nên trao chiếc nanh lại cho Phúc

_ Phúc cần cái nanh heo rừng nầy hơn anh vì em cận kề với sự hiểm nguy ngoài chiến tuyến, còn anh thì bay ở trên trời dù sao cũng an toàn hơn, VC bắn khó trúng phi cơ lắm! Cám ơn em đã yêu thương và lo cho anh. Có điều anh khuyên em là đừng quá tin tưởng vào cái nanh nầy mà không ẩn núp trước hỏa lực của đối phương!
Phúc năn nỉ mãi, nhưng tôi vẫn không chịu nhận cái nanh.
Sau đó, Phúc chở tôi ra Tam Kỳ, ngồi quán cà-phê, nghe nhạc lính tới chiếu mới trở vô Quảng Ngãi.

Hết phép, tôi phải trở về đơn vị, nhưng vợ con tôi còn ở lại Quảng ngãi. Tôi hẹn tháng sau sẽ trở ra Trung, đón vợ con tôi về Cần Thơ. Tôi đi biệt phái ra Đăc Khu Phú Quốc, mua đăc sản cá khô thiều, tôm khô với dự định làm quà tặng Phúc và anh em đồng đội của nó khi tái ngộ với họ. Tôi có ngờ đâu, ngày tôi trở lại quê hương núi Ấn, sông Trà thì được tin Phúc bị mất tích khi căn cứ “West Quế Sơn” của nó bị thất thủ. Ái Phương, vợ Phúc vẫn tin tưởng rằng Phúc còn sống và bị bắt làm tù binh. Riêng tôi cảm thấy buồn muốn khóc như đã mất một người thân và theo linh cảm của tôi thì Phúc khó mà sống sót được. Tôi chỉ biết an ủi em vợ tôi hãy nén đau thương và can đảm vượt qua sóng gió cuộc đời để lo nuôi dưỡng 3 đứa cháu thơ cho khôn lớn, nên người.
Năm 1973, tôi được về Sài Gòn dự đại lễ mừng Ngày Quân Lực 19-6. Trong bữa tiệc do Tổng Thống khoản đãi 211 chiến sĩ xuất sắc tại Dinh Độc Lập, tôi nhìn sang bàn bên cạnh, thấy một quân nhân mang phù hiệu “Con cá hóa long” của Trung Đoàn 5 ( tức là Trung Đoàn của Phúc ). Tôi vội đến hỏi thăm tin tức của Phúc thì được anh lính ấy cho biết:

_ Căn cứ West Quế Sơn bị Cộng quân tràn ngập, nó bắt Đại úy Phúc dẫn đi. Đại úy Phúc kháng cự lại nên bị chúng nó bắn ổng chết tại chỗ.

Tôi không có thì giờ hỏi người lính nầy thêm nữa. Giữa tiệc vui đầy cao lương mỹ vị mà tôi bỗng nghe tê đắng cả vị giác và cõi lòng mang nặng nỗi đớn đau, thương tiếc một đứa em “cột chèo” dũng cảm, bất khuất trước kẻ thù. Những lời nó nói với tôi trước kia như một lời nguyền. Nó đã giữ đúng lời nguyền ấy như đinh đóng vào cột!
Trong lần về phép ở Quảng ngãi, tôi đã thuật lại tin tức tôi biết được về Phúc cho em vợ tôi nghe. Ái Phương trả lời:

_ Không phải vậy đâu anh.! Anh Phúc vẫn còn sống mà!

Tôi nhìn vào đôi mắt của Ái Phương, tuy em không khóc, nhưng tôi cảm nhận được ánh mắt ấy sấu thăm thẳm và chắc là em đang khóc trong lòng. Tôi hối hận vì mình đã gieo thêm nỗi buồn đau cho Ái Phương. Đáng lẻ tôi không nên khuấy động tâm tư của Ái Phương bằng những tin buồn mà tôi đã nhận được để cho đứa em đáng thương kia nuôi niềm hy vọng mà sống với đàn con thơ dại cho đoạn tháng, qua ngày.

Trong ngày trao trả tù binh sau Hiệp định Paris, tôi đã dò danh sách tù binh VNCH trên những tờ nhựt báo, được Cộng sản trao trả, nhưng không thấy tên Châu Đình Phúc đâu cả. Tôi nghĩ Ái Phương chắc cũng đã chăm chú, hồi hộp dò từng tên tù binh được thả về từ ngục tù Cộng sản và thất vọng não nề khi chẳng thấy tên chồng.

Hơn 16 năm sống trên đất Mỹ, vợ tôi vẫn còn liên lạc với Ái Phương và được biết em vẫn ở vậy thờ chồng, nuôi đàn con 2 gái, 1 trai, bây giờ đứa nào cũng lớn khôn, lập gia đình, làm ăn phát đạt. Đứa con gái tên Tuyền đã cùng chồng vượt biển tìm tự do, hiện đang định cư ở Canada.

Vì muốn biết rõ rang sự hy sinh dũng cảm của đứa em “cột chèo” Châu Đình Phúc, tôi đã nhờ Đài Truyền Hình VHN nhắn tin cùng chiến hữu đồng đội của Phúc, yêu cầu họ cho tôi biết tin tức về Phúc. Tôi dược Cựu Trung Tá C. của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Tín trước kia, hiện định cư ở Texas, thuật lại rành mạch biến cố của “Mùa Hè Đỏ Lửa” mà căn cứ West Quế Sơn, còn gọi là Đồn Liệt Kiểm là mục tiêu của địch quân:

Trung Tá C. ra căn cứ West Quế Sơn nằm giữa Việt An và Hiệp Đức để bàn định kế hoạch phòng thủ vì có tin địch sẽ tấn công căn cứ nầy.
Bỗng 5 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1972, Đặc công Việt cộng tấn công căn cứ. Chúng đột nhập và làm chủ tình hình, kêu gọi lực lượng ta đang ẩn núp trong công sự phòng thủ, hầm truyền tin hãy ra đầu hàng. Trung tá C. bị thương, trốn trong một lô-cốt cùng với một người lính truyền tin. Ông hoàn toàn bị mất liên lạc với Thiếu tá Nguyễn văn Bê – Tiểu đoàn trưởng và Đại úy Châu Đình Phúc- Tiểu đoàn phó. Những ngày ấy, mây mù bao phủ vùng trời, phi cơ không bay đến oanh kích, yểm trợ được. Pháo Binh ta bắn liên tục chung quanh căn cứ nên Trung tá C. không thể nào ra khỏi nơi ẩn trốn được.

Đến ngày hôm sau, Việt Cộng đem công binh đến kêu gọi sĩ quan và lính còn ẩn trốn hãy ra hàng, nếu không, chúng sẽ đặt chất nổ phá hủy căn cứ.Trung tá C. cùng 5 sĩ quan ra đầu hàng, bị chúng bắt, dẫn đi. Trên đường đi, ông gặp Thiếu tá Bê – Tiểu đoàn trưởng cũng bị bắt làm tù binh. Thiếu tá Bê cho Trung tá C. biết, Đại úy Châu Đình Phúc và một sĩ quan Đại đội trưởng bị chết trong tiếng nổ đầu tiên khi đặc công VC đột nhập và khai hỏa. Tất cả tù binh bị đưa về trại tù ở ranh tỉnh Kontum và Quảng ngãi.
Bị giam cầm một thời gian, Thiếu tá Bê kết hợp vượt thoát cùng 5 sĩ quan của Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Thừa lúc đi làm lao động khổ sai, 2 tên cán bộ võ trang sơ ý, Thiếu tá Bê chém chết chúng nó, đoạt vũ khí rồi chạy vô rừng. Chẳng may trên đường tẩu thoát, Thiếu tá Bê cùng anh em gặp một đơn vị của Việt cộng. Hai bên bắn nhau, Thiếu tá Bê cùng 2 sĩ quan bị tử thương còn 3 người kia bị bắt sống. Sau đó, chúng hành hạ tù binh trong trại đủ mọi cách để trả thù.

Năm 1973, Trung tá C.được trao trả tù binh khi ông đã kiệt lực, đi không nổi phải nhờ Đại úy N.D.A – Pháo đội trưởng của căn cứ West Quế Sơn và 1 người nữa võng ông ta đi đến 7 ngày đường mới tới địa điểm trao trả tù binh.

Qua lời tường thuật của Trung tá C., tôi nghĩ nếu Phúc bị bắt làm tù binh thì chắc thế nào nó cũng kết hợp với Thiếu tá Bê – tiểu đoàn trưởng để vượt ngục và chắc Phúc sẽ cùng chung số phận với Thiếu tá Bê khi chạm súng với Cộng quân trong rừng.

Vùng ranh giới 2 tỉnh Kontum và Quảng ngãi núi non trùng điệp, chớn chở, rừng già rậm rạp, thâm u với ngọn Ngọc Lĩnh cao trên 9.000 feet. Ngày trước biệt phái cho Trại Biệt Kích B.15 ở bên kia đầu cầu DakPla của tỉnh Kontum, tôi thường bay qua vùng nầy và nghĩ rằng nếu bị hạ cánh ép buộc xuống nơi đây, may mắn được sống còn thì cũng khó mà mưu sinh thoát hiểm. Thiếu tá Bê thật là một sĩ quan của QLVNCH dũng cảm, can trường đã quyết không đội trời chung với quân thù. Việt cộng nắm vững địa thế vùng nầy vì là địa bàn hoạt động của chúng (“Rừng nào, cọp nấy”!). Thiếu tá Bê và 5 sĩ quan kia với hỏa lực ít ỏi làm sao chống nổi với đơn vị đầy đủ đạn dược của Cộng quân, như “mãnh hổ nan địch quần hồ”! Anh đã chết đi nhưng đã nêu cao tấm gương anh hùng bất khuất muôn đời, theo truyền thống của nòi giống Rồng Tiên.
Tôi nhận được tin tức chính xác về Phúc trong vòng một tháng thì Ái Phương được đứa con gái bảo lãnh sang Canada. Tôi gọi điện thoại thăm em ấy và kễ lại chuyện đồn Liệt Kiểm bị thất thủ theo lời Trung tá C. tường thuật. Lần nầy, Ái Phương không chống chế lời tôi nói nữa, nhưng chắc em cũng buồn nhớ, tiếc thương người bạn tình chung đã ra đi không bao giờ trở lại.

Vợ chồng tôi hứa sẽ qua Canada thăm em, nhưng chưa đi được. Mùa Xuân năm nay, ở miền lạnh giá, chắc em sẽ nhớ quê nhà và nhớ thương chồng em đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia, noi gương vị anh hùng dân tộc Hoàng Diệu, thành mất thì chết theo thành. Thân xác của Phúc không biết bị vùi dập nơi đâu!? Nó không được nằm trong cổ quan tài phủ cờ Tổ Quốc và không được an táng dưới “nấm mồ danh dự”. Theo quan niệm sống của tôi, người nào an ủi tôi lúc hoạn nạn, đau buồn, cũng đủ cho tôi mang ơn người ấy. Do đó, tôi không thế nào quên được ân tình của Phúc đối với tôi khi Phúc mua cái nanh heo rừng mà nó cho là bùa hộ mạng, nhưng không dùng báu vật ấy để che thân mà tặng cho tôi để tôi được an toàn trong những phi vụ bay yểm trợ hành quân. Nó chỉ nghĩ tới sinh mạng của tôi mà quên cả bản thân của nó! Riêng Ái Phương thật xứng đáng nêu gương một người vợ thủy chung, thủ tiết thờ chồng, nuôi con đến tuổi khôn lớn, thành nhân, vượt qua bao sóng gió của cuộc đời. Có lẽ dưới suối vàng, Phúc cũng đẹp lòng vì có được một người vợ hiền giữ tròn thệ ước và vẹn vẽ câu “tứ đức, tam tùng”.

Kha Lăng Đa

Quên Hay Nhớ !