Tuesday, March 20, 2012

40 Năm ... Một Thời Chinh Chiến.

"Vào lúc 6:00pm ngày thứ Bảy 10/3/2012 có khoảng gần 100 cựu SVSQ khóa 4/71 An Lộc về họp khóa tại Santa Ana, California. Các cựu SVSQ khóa nầy hiện nay đã trên 60 tuổi, họ đến HK theo nhiều đường khác nhau, vượt biên, vượt biển, HO, đoàn tụ gia đình. Dù với hoàn cảnh nào, các cựu SVSQ của khoá An Lộc 4/71 vẫn giữ gìn danh dự của một sĩ quan QL/VNCH sống và chết với 3 chữ Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm.
Nhân ngày họp khóa tại Nam California, chúng tôi xin giới thiệu bài hồi ức của một cựu SVSQ của khóa nầy-Mũ Xanh Phan Văn Đuông, hiện đang định cư tại Nam California, Little Sài Gòn-để nhìn thấy sự thật về cuộc sống thật của một sĩ quan trong giai đoạn khó khăn của cuộc chiến tranh Việt nam. Nó thật đến trần trụi, trần trụi đến nỗi thấy được cả đường tơ kẽ “tóc”. Có ai ứa nước mắt khi đọc những “điều vụn vặt” này của Phan Văn Đuông hay không? Có bao nhiêu quân nhân, cấp chỉ huy biết đến hoàn cảnh bi hùng tráng của thuộc cấp, đồng đội, cấp chỉ huy K4/71 này và cả những khóa khác nữa? Có biết bao gương chiến đấu và hy sinh như thế này mà các anh không viết! Không biết! Nhất tướng công thành vạn cốt khô."
Lê Bình
03/15/2012

Trước Tượng Đài Chiến Sĩ.
o O o
40 Năm, Một Thời Chinh Chiến
Khoá 4/71 SQTB Thủ Đức “An Lộc”
và binh chủng Thủy Quân Lục Chiến
MX Phan Văn Đuông
Khóa 4/71 SVSQ/TBTĐ chính thức khai giảng ngày 7/2/1972 quy tụ 1517 TKS, sau 10 tuần thụ huấn căn bản QS tại TTHL Quang Trung và nhập Trường Bộ Binh Thủ Đức ngày 1/2/1972.
Ngay từ đầu, khóa 4/71 đã có nhiều điều kém may mắn so với hầu hết các khóa SQTB khác. Điển hình nhất là ở cả Quang Trung lẫn Thủ Đức, khóa 4/71 không hề có phép cuối tuần. Ngay cả phép 48 tiếng sau lễ gắn Alpha cũng bị rút xuống còn 36 tiếng (khóa sinh đang đi phép ở Sàigòn thì nghe lệnh đọc trên đài truyền thanh, truyền hình phải tập trung trở về trường gấp vì tình hình khẩn trương!) Thời gian khóa 4/71 có mặt ở Sàigòn lâu nhất là 15 ngày ứng chiến tại Sài Gòn. Tình hình lúc bấy giờ rất là sôi động ở các mặt trận An Lộc, Ban Mê Thuột, KomTum và nhất là Quảng Trị. Các đơn vị đều bị khiếm khuyết lớn đang cần bổ sung, và 1517 tân sĩ quan của khóa 4/71 là một đáp ứng kịp thời cho nhu cầu thiếu hụt sĩ quan đó.
Lễ mãn khóa 4/71 SQTB được tổ chức vào ngày 29/7/1972 và được đặt tên là khóa An Lộc. Ngay sau lễ mãn khóa, các tân SQ vừa chia tay gia đình và bạn bè xong là được từng đoàn xe GMC của các đơn vị nối đuôi đến tiếp đón đưa về thẳng đơn vị chứ không có phép mãn khóa.
100 tân sĩ quan khóa 4/71 tình nguyện về binh chủng TQLC được tiếp nhận và đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Rừng Cấm để được huấn luyện căn bản TQLC về kỹ thuật leo lưới, đổ bộ. Ngay sau đó toàn bộ 100 anh em chúng tôi lên đường ngay ra chiến trường bổ sung cho các đơn vị đang chiến đấu tại Quảng Trị, với lời hứa “sẽ được đi phép mãn khoá sau, khi tình hình cho phép”.
Nếu tính đến ngày cuối cùng 30/4/1975 thì khóa 4/71 là khóa có số sĩ quan về binh chủng TQLC đông nhất từ ngày thành lập Sư Đoàn, được chia đều cho các tiểu đoàn và các Đại đội Viễn Thám, trung bình 10 người cho mỗi TĐ, đông nhất là TĐ3 Sói Biển được 16 người, và Viễn Thám nhận 14 người (dù chưa qua khóa Viễn Thám ngày nào).
Số anh em chúng tôi về TĐ 5 Hắc Long có 10 người được đưa ra trình diện Tiểu Đoàn Trưởng Trung tá Hồ Quang Lịch ngay tại ngã ba Long Hưng (đường vào thị xã Quảng Trị). Thủ tục trình diện chưa xong, 10 anh Chuẩn Úy mới còn đang ngơ ngác, chưa nhìn rõ TĐT vì ông chỉ mặc quần đùi và áo thun màu kaki, không thấy cấp bậc (vì đang là mùa hè) thì đạn đại bác 130 ly của VC ồ ạt pháo xuống địa điểm BCH/TĐ. Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh vào hầm trú ẩn, cả bọn chạy theo. Sau đợt pháo kích khi tình hình yên lặng, anh em chúng tôi được chia về các Đại Đội (tôi còn nhớ ĐĐ3 cần 4 người, còn lại chia đều cho các ĐĐ 1, 2 và 4).
Với tình hình cuộc chiến hết sức sôi động lúc đó, các tiểu đoàn thay phiên quần thảo với địch ngày đêm, ngay trong những ngày đầu về đơn vị, khi chưa kịp quen với gạo sấy, thịt hộp nơi hành quân thì một số anh em đã hy sinh. Như Nguyễn Văn Bình, Tô Ngọc Khánh (ĐĐ3/TĐ5) hy sinh cùng lúc tại ngã ba Long Hưng, như Quách Cao Khiêm (TĐ1), Nguyễn Quang Thu (TĐ2), Đỗ Hữu Đôn, Nguyễn Văn Phương, Phan Thanh Xuyên, Nguyễn Văn Hiếu (TĐ3); Đức (TĐ4) không nhớ họ tên, Thượng Văn Bảnh (được anh em đặt cho biệt danh Thượng sĩ Bảnh), Trần Ngọc Dân (TĐ8), Phạm Gia Tuấn, Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Niên, Ngô Quốc Cường (TĐ9) Vĩnh Lộc, Lê Văn Nuôi (Viễn Thám).
Sau khi đơn vị tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 16/9/1972, rồi Cửa Việt ngày 27/1/1973, tưởng rằng hoà bình đã đến nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục và trong hoàn cảnh ngặt nghèo hơn (không được yểm trợ hỏa lực của KQ và PB) nên một số sĩ quan khóa 4/71 là Trung đội trưởng tiếp tục hy sinh vào đầu năm 1973 như Lê Minh Châu (TĐ4) tại Cửa Việt, Nguyễn Hoàng (TĐ5) tại Gia Đẳng. Tiếp theo đó, Nguyễn Thái Bạch (TĐ8) hy sinh tại mặt trận Phong Điền, Thừa Thiên (tháng 8/1974).
Vào những ngày tháng nghiệt ngã cuối cùng của đơn vị, một số SQ khóa 4/71 khác lại ngã xuống cho màu áo như Phùng Minh Mẫn (TĐ7) tại Thuận An, ngày 24/3/1975 và ngay tại cửa ngõ Sài Gòn, Lê Văn Hoà (TĐ16) hy sinh ngày 28/4/1975 tại Long Bình, Sài Gòn. Một số bị thương giải ngũ như Trần Trọng Hồng, TĐ2 cụt hai chân, Nguyễn Văn Sinh, Nguyễn Đức Phùng và còn rất nhiều anh em bị thương và tử trận sau ngày ngưng chiến nhưng chúng tôi không nhớ được hết.
Trong số các SQ khóa 4/71 về SĐTQLC có thể nói Nguyễn Hoàng (TĐ5) ra đi trong hoàn cảnh cay đắng nhất. Anh chết chỉ 2 ngày trước khi nhận phép đặc biệt về Sài Gòn cưới vợ (trước đó anh đã nhận thư của anh em bạn bè trong đơn vị đem về Sài Gòn gửi hộ). Hay như Nguyễn Thái Bạch (TĐ8) hy sinh tại đồi 21 Phong Điền, trong khi huy chương và lon đặc cách Trung Úy tại mặt trận đang trên đường đến. Bạch là người thăng cấp sớm nhất khoá 4/71. Như vậy theo lẽ thường thì Bạch phải được truy thăng là “cố đại úy”!
Khi bị CSBV bắt làm tù binh và tập trung cải tạo, Lê Đình Lời (TĐ3) chết vì cuốc đất và gỡ mìn tại trại tù Cồn Tiên, Ái Tử, nơi mìn và lựu đạn được gài trước đó còn lại rất nhiều. Mỗi ngày người tù bị giao cho 25m² đất để cuốc và…. gỡ mìn, anh em chúng tôi đùa với nhau “sống sót qua cơn đó không chết là chuyện phi thường”. Chuyện này còn căng thẳng hơn cả lúc còn đánh nhau ở Cổ Thành. “Quận trưởng Triệu Phong” Lê Đình Lời suốt mùa chiến tranh không sứt mẻ vì đạn VC nhưng chết vì mìn khi cuốc đất ở Cồn Tiên! (biệt danh do anh em đặt cho Lời vì anh được lệnh dẫn trung đội chiếm quận đường Triệu Phong trước giờ ngưng bắn, anh đã hoàn thành nhiệm vụ trước 8 giờ sáng ngày 27/1/1973 dẫn quân vào quận đường đầy xác VC mà không một bóng người. Từ đó Lời có tên là “Quận Trưởng Triệu Phong”). Một cái chết đau thương khác là Mai Xuân Cương (TĐ5) khi phải phá những công sự cũ đã bị sập hầm đất đè đến chết.
Một trường hợp may mắn không chết nhưng không kém khốn khó là Phạm Gia Thuỵ (VT) bị thương nhẹ nơi mắt tại cửa biển Thuận An. Sau khi bị bắt làm tù binh, vì nhiễm trùng, mắt bị thương làm độc. Anh “được” (?) mổ mắt không thuốc tê, chẳng thuốc mê, thiếu dụng cụ y khoa, y công VC dùng chiếc thìa không khử trùng múc bỏ con mắt làm độc nhưng may mắn không chết, chỉ bỏ 1 con ngươi lại nơi núi rừng.
Danh sách các SQ khóa 4/71 An Lộc tình nguyện phục vụ tại SĐTQLC :
Tiểu Đoàn 1 Quái Điểu
Vũ Kim Long
Trần Ngọc Tráng
Trần Thiện,
Trần Văn Phá,
Ngô Văn Phát
Lâm Văn Diệp
Nguyễn Minh Chiến
Nguyễn Phú Châu
* Quách Cao Khiêm (tử trận, Quảng Trị, 1972)
Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên
Bùi Quang Đức
Bùi Văn Bé
Nguyễn Hữu Hạnh,
Mai Ngọc Huyện
Bùi Công Bình,
Ngô Đình Hương,
Hồ ngọc Hiếu
Phạm Bá Long
Nguyễn Trọng Sơn
Nguyễn Đình Long (tù binh VC, Cửa Việt, Quảng Trị, 1972)
* Nguyễn Quang Thu (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Lê Văn Đắc (tử trận, Hải Lăng, Quảng Trị, 1972)
Tiểu Đoàn 3 Sói Biển
Nguyễn Ngọc Tốt
Trần Trung Ngôn
Đinh Tấn Lộc
Lê Văn Lực,
Phan Thái Lựu
Lê Quang Đức
Nguyễn Ngọc Lập
Nguyễn Nhật Thuần,
Nguyễn Huy Sang
Nguyễn Hữu Tú (giải ngũ, 1973)
* Phan Thanh Xuyên (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Nguyễn Văn Hiếu Tử (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Đỗ Hữu Đôn (tử trận Quảng Trị, 28/8/1972)
* Nguyễn Văn Phương (tử trận, Chợ Sải, Quảng Trị,11/1972)
* Lê Đình Lời (chết tại trại tù Bình Điền, 1979)
* Châu Quốc Bình (chết, Việt Nam, 2007)
Tiểu Đoàn 4 Kình Ngư
Phạm Minh Tâm
Trần Hiền
Nguyễn Văn Lâm
Huỳnh Quang Minh
Võ Phước Tiêm
Dương Hồng Phong
Nguyễn Đức Giang
Nguyễn Minh Xuân
* Lê Minh Châu (tử trận, Cửa Việt, Quảng Trị, 1972)
* Đức (không nhớ họ và chữ lót) (tử trận, Quảng Trị, 1972)
Tiểu Đoàn 5 Hắc Long
Phan Văn Đuông
Trần Văn Khỏe
Khúc Chánh Thời
Trần Trọng Hồng thương phế binh cụt 2 chân
* Nguyễn Hoàng (tử trận, Quảng Trị)
*Nguyễn Văn Bình (tử trận, Quảng Trị)
*Tô Ngọc Khánh (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Mai Xuân Cương (chết trong trại tù VC)
Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng
Nguyễn Miển
Lữ Đình Chậm
Nguyễn Tấn Cương
Võ Em
Nguyễn Đức Phùng giải ngũ tháng 9 năm 1972
Nguyễn Văn Sinh giải ngũ 1972
Tiểu Đoàn 7 Hùm Xám
Nguyễn Vĩnh Cương
Nguyễn Hữu Kiếm
Nguyễn Văn Thanh
Nguyễn Mạnh Hùng
Huỳnh Hoa Cương
* Phùng Minh Mẫn (tử trận, Quảng Trị, 2/1975)
* Lê Văn Hòa (tử trận, Long Thành, Biên Hòa với TĐ16 , 28/4/1975)
Tiểu Đoàn 8 Ó Biển
Nguyễn Văn Nên
Bùi Văn Tần
Bùi Thanh Liêm
* Trần Ngọc Dân (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Thượng Văn Bảnh (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Nguyễn Thái Bạch (tử trận, Phong Điền, Thừa Thiên, 1974)
Tiểu Đoàn 9 Mãnh Hổ
Lê Văn Canh
Trần Văn Ngân
Bùi Quang Thịnh
Trần Văn Cường
Hồ Khen
Trương Phước Dĩnh
* Ngô Quốc Cương (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Nguyễn Văn Bảo (tử trận, Quảng Trị, lúc đang trình diện TĐT, 8/1972)
* Nguyễn Văn Niên (tử trận, Quảng Trị, 8/1972)
* Phạm Gia Tuấn (tử trận, Quảng Trị, 10/1972)
* Huỳnh Hữu Lộc (chết khi vượt biên)
Tiểu Đoàn Tổng Dành Dinh-Viễn Thám
Phạm Gia Thụy
Mai Mạnh Thước
Lê Văn Thảo
Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Quang Toản
Nguyễn Minh Hiền
Nguyễn Công Chiếm
Lê văn Quý
Nguyễn Viết Trọng
Ngô đình Hiệp
Nguyễn Xuân Dương
Phạm Ngọc Sơn
* Lê Văn Nuôi (tử trận, Quảng Trị, 1972)
* Vĩnh Lộc (tử trận, Quảng Trị, 1972)
(Còn 2 bạn Mạc Minh Anh và Quang Kim Su không nhớ đã về Tiểu Đoàn nào khi mới ra trường.)
Khóa 4/71 ngoài binh chủng TQLC, phục vụ các đơn vị bạn cũng làm rạng danh cho khóa như :
-Phạm Lê Phong (ND) thủ khoa khóa 4/71 An Lộc, hy sinh tại Quảng Trị và tên anh được đặt cho khóa 1/72 SQTB là khóa Phạm Lê Phong.
-Dương Tùng Lâm (CSDC) cuối cùng cấp bậc Thiếu Tá (cũng là cấp bậc cao nhất khóa trước năm 1975), hiện cư ngụ tại Washington DC.
-Pham Khánh Hoài (TG) cũng là trường hợp khó tìm thấy trong QLVNCH, năm 1972 trên chiến trường Pleiku anh được ân thưởng Đệ ngũ đẳng Bảo Quốc Huân Chương và danh hiệu Chiến sĩ xuất sắc, hiện cư ngụ tại Atlanta, GA.
Có thể nói những SQ khóa 4/71 hy sinh trong những ngày mùa Hè đỏ lửa tại Quảng Trị là những người thiệt thòi nhất. Chưa được đi phép mãn khóa và có những người vĩnh viễn ra đi mà chưa mặc được bộ quân phục “rằn ri”, chưa được đội chiếc mũ xanh của binh chủng họ hằng yêu thích. Lý do vì thật sự họ chưa có được một ngày phép (dù chỉ vỏn vẹn 24 tiếng ở Huế), chưa có một ngày lương để mua chiếc beret xanh và bộ quân phục màu sóng biển (ngày đầu về đơn vị chỉ được cấp quân phục ngụy trang màu hoa rừng của BĐQ).
Nổi trôi theo vận nước, anh em khóa 4/71 bị bắt làm tù binh hoặc bị lùa đi tập trung cải tạo nhưng vẫn sống hiên ngang, không khuất phục, vẫn cố gắng đoàn kết che chở cho nhau trong những hoàn cảnh khó khăn nhất ở các trại tù CS. Khóa 4/71 có Trần Văn Khoẻ vượt trại tù CS ở Phước Long, vượt biển đến trại tỵ nạn Pulau Bidong, Phan Văn Đuông vượt trại ở Ái Tử, Bình Điền, về Sài Gòn lang thang một thời gian rồi vượt biển đến trại tỵ nạn Pulau Galang. Một số khác vượt trại nhưng không vượt biên, vượt biển được đành ở lại Việt Nam rồi sau đó lại không thể đi tỵ nạn chính trị qua chương trình HO (xin dấu tên), vì không có giấy ra trại tù!
Sau 40 năm nhìn lại, số SQ khóa 4/71 An Lộc chúng tôi về TQLC nay sống tản mác khắp nơi trên thế giới, Mỹ, Canada, Úc, Đức và một số còn ở lại VN, đều hiểu rằng khi tình nguyện về binh chủng TQLC là chấp nhận hy sinh (vì chiến sự đang lúc có những trận đánh khốc liệt nhất), chấp nhận thiệt thòi (vì binh chủng đất hẹp người đông) nhưng anh em vẫn hãnh diện đã một thời được phục vụ trong Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Tình đoàn kết gắn bó, thân thiện của anh em trong đơn vị vẫn như ngày nào khi nhập khóa rồi mãn khóa.
Một bằng chứng thực tế là cho đến hôm nay, mỗi lần tổ chức đại hội khóa 4/71 SQTB anh em khắp nơi trên thế giới về rất đông đủ, có người đầy bệnh tật, có kẻ đau yếu vì tuổi già, vì thương tật cũ thời chiến để lại nhưng vẫn cố gắng về tham dự. Có người đến với đại hội phải bán chiếc xe cũ vừa đủ tiền mua vé phi cơ, có anh phải dùng xe lăn nạng gỗ đến hợp mặt chia sẽ những niềm vui nơi quê người và những nỗi buồn nơi quê nhà, nơi còn nhiều thương phế binh sống cuộc đời sương gió, cơ cực trong đó có cả anh em 4/71 TQLC!
Với trí nhớ kém cỏi cùn mằn của tuổi “mới già”, xin ghi lại những điều vụn vặt còn nhớ và xin được mượn câu “Một ngày TQLC, một đời TQLC” để nhớ đến tất cả những anh em TQLC khóa 4/71 đã hy sinh và còn sống, dù ở quê nhà hay nơi quê người. 

MX Phan Văn Đuông
   TĐ 5 Hắc Long

Nguồn : Bảo Vệ Cờ Vàng

Sunday, March 11, 2012

Một Mảnh Mo Cau



Trận Chiến Đẫm Máu của HQ.VNCH : Trận Ba Rài

Con ngựa Xích Thố của Giang Lực.

Trong suốt hơn 20 năm hoạt động của HQ/VNCH, các chiến hạm cũng như các chiến đỉnh, dù do Pháp giao lại, hay sau này do Mỹ chuyển giao, đều do Mỹ sản xuất. Chỉ riêng chiếc Scan/ Fom, tiếng Việt gọi là Tuần giang đỉnh, là do Pháp đóng. Đây là một chiến đỉnh có nhiều đặc tính và tỏ ra rất công hiệu trong việc tuần tiễu trên sông rạch vùng Cửu Long Giang. Việt Cộng đã nhiều phen kinh hãi trước sự xuất hiện của loại chiến đỉnh này.

Tuần giang đỉnh Fom sơn màu nguỵ trang.

Trong sinh hoạt của các giang đoàn, chiến đỉnh này được gọi tắt là Fom. Hỏi tại sao lại gọi như thế, nhiều người đã trả lời, vì khi chạy máy tầu nổ rất ròn kêu “fom, fom”. Nghe cũng có lý. Nhưng đúng tên của nó là do chữ Scan/ Fom (Service Technique des Constructions et Armes Navals Frances Outre-Mer). Một loại tầu được đóng để Hải Quân Pháp hoạt động ngoài nước Pháp, đặc biệt cho Đông Dương. Chiến đỉnh này dài 36 bộ, rộng độ 7 bộ, mũi nhọn, đáy tầu cũng nhọn, chạy nhanh xé nước tạo thành một vùng trũng khiến cho toàn thân tầu gần như thấp hơn mặt nước, tránh được các loại súng lớn từ bờ muốn bắn vào phần thân tầu. Cũng vì mũi nhọn, đáy nhọn, khi bị thủy lôi, sức công phá của thủy lôi tạt qua một bên (khác hẳn với các loại chiến đỉnh đáy bằng, khi bị thủy lôi là cầm chắc đáy tầu bị phá). Loại Fom này, được trang bị một đại liên 12 ly 7 tại mũi, với dàn pháo tháp bằng thép bao quanh, đại liên này có tầm hoạt động mạnh, xa tới 5 cây số, và vòng hoạt động 220 độ về phía trước và hai bên. Trên nóc tầu có 2 đại liên 30, và sau lái 1 đại liên 30 nữa, chưa kể các loại súng nhỏ như M16, M79. Thường mỗi chiếc chỉ có 4 nhân viên. Tầu bao giờ cũng đi hai chiếc, do một hạ sĩ quan làm thuyền trưởng trông nom cả cặp tầu. Sự lanh lẹ, gọn nhẹ của chiếc Fom được ví như “con ngựa Xích Thố của Giang Lực”.

Để có một cái nhìn sống động hơn về hoạt động của chiến đỉnh này, xin theo dõi bài bút ký viết về những kỷ niệm, những nguy nan của các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam một thời vùng vẫy trong khu chiến Tiền Giang, qua trận đánh tại Ba Rài.

* * *
Đường Đi Khu Chiến

Tôi bị ra Hội đồng kỷ luật trong một trường hợp thật ngộ nghĩnh, và bị đưa đi đơn vị tác chiến: Giang Đoàn 21 Xung Phong, khu chiến Tiền Giang.

Mới tới đơn vị, tin tức các nơi liên hệ đến các cuộc đụng độ giữa các đơn vị Việt Cộng và các tầu tuần tiểu mỗi lúc một tăng. Sự thương vong mỗi lúc một lớn. Quả thật là tôi có “rét” thật. “Rét” nên tôi cố gắng tìm hiểu, học hỏi các kinh nghiệm của các bạn sĩ quan cùng khóa tại đơn vị, và nhất là các kinh nghiệm của các anh em đoàn viên đã lặn lội nhiều năm tại vùng sông nước nguy hiểm này. Lúc ấy, năm 1965, anh Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, trên tôi một khóa, làm duyên Đoàn trưởng Duyên Đoàn 33 bị nội tuyến, địch giả dân đánh cá làm quen với đơn vị, rồi giữa trưa làm lễ cúng Hà Bá, mời cả Duyên Đoàn dự tiệc, rồi đùng một cái họ nổ súng, bắn chết khá đông. Anh Bổng ở trên ghe chủ lực, cũng bị bắn chết. Tràng đạn xuyên nát ngực. Khi chúng tôi đến lấy xác anh, trời đã chiều. Con rạch Sọ Dừa, cái tên oan trái, là nơi xác anh nằm vắt vẻo bên sàn ghe. Xác anh Bổng xám ngắt và tóp lại như một đứa trẻ, vì máu ra quá nhiều. Xác anh nằm ở sàn tầu, phủ bằng một tấm chăn dạ lính. Máu từ thân thể anh vẫn tiếp tục chảy dài xuống sàn tầu và bò ngoằn ngoèo ra mé cửa sổ chiến đỉnh. Hỏa châu từ nơi nào đó bắn lên dọi sáng một vùng trời. Tôi lại nghe anh sắp sửa lấy vợ nữa. Tôi thương anh và càng thấy sợ. Tôi thì vừa lấy vợ. Hai vợ chồng hai nơi, Sài Gòn và Mỹ Tho... Tôi thương vợ tôi lắm, nên nhủ lòng: “Phải cẩn thận tối đa”.

Lúc rỗi, tôi lên Phòng Hành quân theo dõi bản đồ Trận liệt, ghi các vùng nguy hiểm vào sổ tay. Nhìn cho kỹ địa thế. Đọc thật kỹ ký hiệu nơi có rừng cây, nơi có dừa nước. Các nơi đã từng đụng độ. Và tôi nhận ra rằng, đa số các nơi diễn ra cuộc đụng độ mà phần thiệt hại về ta, là các khúc sông hẹp, uốn khúc. Địch nấp trong hầm bắn ra. Ta hỏa lực hùng hậu, tầm đạn xa, lại có cả loại đạn công phá, nổ khi chạm vật cứng như sắt, thân cây lúc này trở nên ít hữu hiệu. Và thời điểm các cuộc đụng độ, đa số vào khoảng 4, 5 giờ chiều. Giờ mà theo thói quen, quân ta đã lo sửa soạn ra về, máy bay khi cần khó gọi, có đến cũng khó can thiệp. Giờ của địch, như thế kể như từ 4, 5 giờ chiều cho đến 4, 5 giờ sáng.

Còn các cuộc bắn tầu, như kinh nghiệm các bạn kể lại, thường là vào ban đêm. Lúc ấy, nếu tinh ý, ta sẽ thấy “sao mà đất trời lạnh ngắt”. Lạnh ngắt vì khi bờ sông có người phục kích, chim muông không dám xà xuống đậu. Có xà xuống thấy người lại chới với bay lên. Vì thế cảnh vật bỗng trở nên vắng lặng, rờn rợn. Lúc ấy, nếu thấy một ngọn đèn thắp lấp lánh bên bờ sông, ta có nhiều phần chắc đó là ngọn-đèn-nhắm. Việt Cộng thắp ngọn đèn bên kia sông, chúng nằm bên này sông, trời tối càng tốt. Khi tầu lướt trên mặt sông, án ngữ tầm nhìn của ngọn-đèn-nhắm là bên này sông, chúng đã hờm súng sẵn, cứ việc bấm cò. Chắc như bắp. Chỉ trừ khi tên xạ thủ run tay, chậm trễ, đạn mới vượt qua sau lái.

Một cặp giang đỉnh Fom tuần tiểu trên sông rạch.

Lúc như thế, ta mới thấy chiếc Fom hữu hiệu như thế nào. Fom, như trên đã viết, chạy nhanh, có bị bắn, đạn đi trên tầm nước, khó chìm. Thấy đèn nhấp nháy khả nghi, Fom, loại tầu đi trước và đi sát mé sông, xả tốc độ, quay 90 độ, bỏ đèn nhắm của địch sau lái, lấy đại liên 12 ly 7 bắn như mưa vào bờ đối diện. Đâm thẳng vào. Đạn đan kín trời tràn ngập nơi địch trú ẩn. Tới gần, hai đại liên 30 trên nóc tầu xả đạn quanh điểm khả nghi. Đồng thời dùng M 79 bắn vào. Đạn nổ bùng. Việt Cộng bạo thì nằm dí đó, ăn đạn nát thây. Vụt chạy thì khó tránh được rừng đạn 12 ly 7 và đại liên 30 bắn đuổi theo như mưa bấc.

Đức Râu, kẻ tử thù của Việt Cộng

Người cho tôi kinh nghiệm về chiến thuật phản xạ này là Trung Sĩ I Lê Phước Đức, tục gọi là Đức Râu. Anh thâm niên quân vụ khá bộn, đâu như xuất thân từ khóa I, khóa 2 Đoàn Viên, ngành Thủy Chiến Binh (Fusilier), do Pháp huấn luyện. Bạn bè anh đã có người có đai vàng trên mũ. Anh vẫn chỉ có ba chữ V trên vai áo. Anh người Nam, to con, mặt hơi rỗ, râu hàm xanh ngắt. Lúc nhàn rỗi, anh ngồi lầm lì trên tầu, bên cạnh là một thùng bia Quân Tiếp Vụ, uống tì tì, mặt đỏ râu dựng, không nói một câu. Ít ai biết về gia cảnh anh. Lúc nhàn rỗi đã thế, khi đụng trận, vừa ngồi trên nóc tầu, hai chân thòng xuống bánh lái. Một tay bấm cò đại liên 30, một tay cầm ống liên hợp điều động chiếc Fom bạn, ủi đầu vào nơi địch vừa khai hỏa. Những lúc như thế, trời chiều đã gần tắt, mây đỏ đầy trời. Anh lẫm liệt lao vào lửa đạn, uy dũng lừng lững, như Quan Vân Trường với Thanh Long đao trên mình con ngựa Xích Thố. Lúc ấy, đoàn tầu cứ việc nhẹ nhàng tiến, và lặng lẽ theo dõi cặp Fom của anh làm cỏ hai bên bờ.

Có lúc tôi đã hỏi anh:

-“Sao cứ ở đây hoài, đi tầu biển cho nó thay đổi cuộc sống chăng?”

Anh tợp một hơi bia và nói:

-“Ông thầy! Mấy thằng fusilier (chiến binh) đi tầu là loại lính-mỡ”.

Tôi phân vân hỏi:

-“Lính mỡ là...?”

Anh đáp:

-“Mang tiếng là chiến binh mà đi tầu biển chỉ có việc lấy mỡ xoa vào nòng súng cho khỏi sét, chứ lính gì tụi nó”.

Anh ví von đến là hay, tuy có phần hơi cường điệu...Trong đơn vị, anh là người có nhiều huy chương nhất, anh chỉ đeo có ngành dương liễu mà thôi. Các ngôi sao vàng, sao bạc, anh bảo “đồ ăn giỗ đó mà ông thầy”. Trong các cuộc hành quân tuần tiểu, có khi chỉ có một chiếc soái đỉnh, hai Quân Vận đỉnh và hai chiếc Fom, biệt phái cho một vùng nào đó. Toán đi như thế, sĩ quan nào cũng muốn có cặp Fom của anh Đức. Bạn tôi, Trần Hữu Khánh, tay trì của Giang Đoàn nói:

-“Có Đức đi theo mình yên trí lắm. Có đụng mới thấy ngựa hay”.

Tôi ở Giang Đoàn có mấy tháng, đã thấy mấy lần đụng độ. Đức lúc nào cũng được nhắc đến, với các chiến lợi phẩm. Khi thì mấy khẩu CKC, bá đỏ..., chiến công lặt vặt ấy, anh bảo:

-“Thôi để cho mấy đứa em. Dù nó có ở khẩu 30 sau lái, cũng là đụng trận chứ. Cho nó có chút xanh, chút đỏ cho vui. Tôi đeo đủ rồi”.

Vào giữa năm 1965, một buổi trưa, một đoàn tầu đi tuần trên kinh Chợ Gạo. Con kinh huyết mạch để đoàn ghe gạo, cá từ Vùng IV về Sài Gòn qua đó. Kinh Chợ Gạo, vòng đai an toàn cho Mỹ Tho, Bình Phục Nhất, nơi mà “mình vừa đi qua, là tụi nó ló mặt ra liền”, chính nơi này, Đức Râu và cặp Fom của anh đã làm Việt Cộng điên đảo. Vì là tầu nhỏ, một tầu tiến vào lạch, kéo theo chiếc Fom khác quay mũi trở ra . Như thế lạch hẹp, tầu phải vừa đi vừa vén lau mà lủi, không thể xoay sở, chẳng thể quay đầu. Vì thế Việt Cộng tin là “lạch hẹp, bố bảo tụi tầu cũng không dám vào đây”. Vậy mà Đức Râu bảo:

-“Ông thầy cứ nằm ngoài kinh. Để tôi vào”.

Vào sâu nằm đó, khi ở ngoài kinh đoàn tầu đã đi. Trong lạch um tùm, hai chiếc Fom nằm im khe. Tụi Việt Cộng ló ra, chèo ghe đi lại. Cho thật chắc, để chúng xuất hiện đông, là Fom khai hỏa. Chúng chạy đâu cho thoát. Lúc ấy chiếc Fom buộc sau chiếc Fom đi đầu, mở máy chạy, kéo theo chiếc thứ nhất trở ra kinh lớn... Sự gan dạ và thông minh ấy của Đức, Đức Râu, đã làm địch khiếp vía. Bao nhiêu xác địch đã bị bỏ lại trên bờ kinh. Bao nhiêu gạo, muối, đồ tiếp liệu của địch đã tịch thu được, một phần không nhỏ là do Đức với cặp Fom đem về.

Rồi một hôm, giữa năm 1965 cũng chính từ chiếc Fom của Đức HQ 5001,HQ 5002 gọi về, giữa trưa:

-“Tôi bị bắn, lạ lắm. Lửa phát ra xanh lè. Đạn xuyên từ bên trái tầu, qua luôn thành bên phải, ghim vào bờ kinh nổ bùng. Chúng bắn xong lủi rất nhanh vào khúc quẹo”.

Cả Giang Đoàn bàn tán. Các chi tiết ấy đã được sĩ quan Ban 2 ghi lại, gửi về Bộ Tổng Tham Mưu. Sau này mới hay đó là loại súng mới rất lợi hại của địch: B40. Và cũng từ đó, thay vì chỉ là súng ngựa trời, CKC, bá đỏ, Việt Cộng có loại AK 47, nhẹ, bắn liên thanh. Cũng từ lúc ấy, tin đồn Việt Cộng treo giải, ai giết được Đức râu sẽ được thưởng 200 ngàn đồng, số tiền tương đương với nhiều lạng vàng. Một gia sản lớn. Nghe thế, đọc các truyền đơn ấy, Đức râu chỉ cười. Ngồi thừ trên mũi Fom, uống rượu tì tì.

Ở lâu quá một con tầu không nên, cần phải thuyên chuyển qua tầu khác để có kinh nghiệm mới, và cũng là dịp cho nhân viến khác lên thay, để có cơ hội học hỏi thêm. Đức râu được lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong đỉnh (Monitor combat), HQ 6001.

Tiền Phong đỉnh còn gọi là Thiết Giáp đỉnh, là loại chiến đỉnh được trang bị hùng hậu nhất trong các chiến đỉnh hoạt động trên sông, dài 60 bộ, rộng 17 bộ. Trước mũi là đại bác 40 ly, pháo tháp dày. Ở giữa chiến đỉnh có một súng cối 81 ly, hai đại liên 12 ly và hai đại liên 30, và nhiều súng nhỏ, kể cả súng phóng lựu M 79. Hai máy dầu cặn, hai chân vịt nên xoay sở dễ dàng, tốc độ 8 gút. Nhân viên cơ hữu độ mười người. Khi cuộc hành quân quy mô, thường có các sĩ quan trưởng toán hiện diện tại đây. Đức râu được biết “phải” rời cặp Fom cuả anh để lên làm thuyền trưởng chiếc Tiền Phong đỉnh HQ 6001. Anh không muốn lên, vì như nhiều người biết, ở đây gần mặt trời, lại là chiến đỉnh lớn, khó tung hoành. Nhưng anh không thể từ chối. Vì thâm niên công vụ, anh sẽ đeo lon Thượng Sĩ nay mai, không thể ở mãi trên tầu nhỏ được.
Làm quen với chiến đĩnh này, cũng không khó đối với anh. Với tướng mạo hùng dũng ấy, các tay đàn em sợ một phép.

Tiền phong đĩnh Monitor Combat sơn màu nguỵ trang.

Trận Ba Rài 29/9/1965

Giang kể:
“Cuộc hành quân dựa theo tin tình báo cuả SĐ 7BB theo đó Trung Đoàn chính quy BV có trang bị vũ khí nặng đã có mặt trong vùng. SĐ 7 BB đã mở cuộc hành quân bao vây trước đó một ngày, lực lượng gồm nhiều Tiểu Đoàn TQLC và Bộ Binh SĐ 7. Lực lượng này đã bị cầm chân và không rút được, phi cơ cũng không can thiệp được vì rừng cây dầy đặc. Phía ngoài, tại cửa sông lớn đi vào, địch đã để một thành phần súng lớn để diệt tầu Hải Quân (sau này, khi đụng độ mới biết, vì chúng ngụy trang và bất động).

Do đó SĐ 7 BB yêu cầu Hải Quân mở cuộc hành quân phối hợp thăm dò tiếp theo để có thể can thiệp cho kế hoạch: Rút quân và để phi cơ oanh tạc.

Giang Đoàn 21 Xung Phong và 27 Xung Phong do HQ Đại Úy Trần Văn Triết chỉ huy, mở cuộc hành quân thay cho HQ Thiếu Tá Huỳnh Huy Thiệp, đi họp ở Cần Thơ. Đoàn tầu đi tới vùng hành quân khoảng 2 giờ chiều. Tất cả nằm ngoài sông lớn. Riêng toán của tôi gồm Monitor Combat 6001 và hai Fom 5001-5002 được chỉ định đi vào kinh nhỏ bắt liên lạc với bộ binh. Toán của tôi chỉ huy gồm thuyền trưởng Nguyễn Văn Đức (Râu) và Trung Sĩ Sụn (Fom). Chúng tôi đã tiến sâu vào trong kinh và bắt liên lạc trực tiếp với lực lượng trên bờ tại xã Xuân Sơn. Tôi báo cáo ra ngoài cho Đại Úy Triết biết. Đại Úy Triết bèn cho một Monitor Comand với hai RPC hộ tống đi vào, và toán của tôi tiến ra yểm trợ. Tất cả đều yên lặng, không có cuộc chạm súng nào, nhưng không khí căng thẳng, vì với kinh nghiệm cho biết, tôi đoán, địch sẽ đánh. Lúc trở ra. Thông thường, bất cứ cuộc hành quân vào sông rạch nào lúc vào không nguy hiểm bằng lúc trở ra; do đó thường tránh đi về cùng một đường. Nhưng trường hợp này không áp dụng được vì độc đạo.

Khi quay trở ra, tiếp tay được với toán Đại Úy Triết, tôi nằm lại giữ an ninh thủy trình, và Đại Úy Triết cho 3 giang đỉnh tiến sâu vào tiếp giáp với bộ binh trên bờ. Khi Hải Quân gặp Bộ Binh, địch không kềm chân Bộ Binh nữa vì sợ Hải Quân phản công.

Vì thủy trình quá dài, nên toán tôi giữ an ninh khúc giữa Đại Úy Triết cho Monitor combat 6007 của Trung Úy Bảo vào giữ an ninh khúc ngoài.

Khoảng 4 giờ chiều, một phi cơ quan sát cho biết một tầu Hải Quân bị cháy phía ngoài đầu kinh. Đại Úy Triết liên lạc với Trung Úy Bảo không được và chỉ thị toán của tôi ra tiếp cứu. Khi gần tới tầu Trung Úy Bảo thì tôi bị tấn công bằng đủ mọi loại súng nặng. Chiếc Monitor Combat HQ 6007 của Trung Úy Bảo là mục tiêu đầu tiên cho địch khai hỏa. Bảo bị thương nặng. Tầu bốc cháy và chìm. Tôi cho lệnh 3 chiến đỉnh ủi thẳng vô bờ phản công. Địch đã xuất hiện với quân phục kaki vàng, nón cối rất đông. Chúng mở cuộc tấn công với mục đích cướp tầu, nhưng chúng không thể nào tiến tới gần tầu được.


Tiền phong đỉnh Monitor Combat và Tuần giang đỉnh Fom tuần tiểu trên sông.

Cuộc giao tranh rất khốc liệt. Toán giang đỉnh của Đại Úy Triết tiến trở ra bị ngay mấy du kích hai bên bờ bắn tỉa làm Thiếu Úy Hiền và Đại Úy David tử thương. Đại Úy Triết bèn ra lệnh cho tất cả rút ra ngoài sông lớn nhưng toán của tôi vẫn nằm lì ở lại, vì đang đối đầu quyết liệt với địch. Chúng tôi đã tận dụng hỏa lực 40 ly, 20 ly, đại liên 50, 30, FM Bar. Địch quân không thể tiến lên được và chúng gục xuống sau những tiếng hô đồng nhất “xung phong”.

Khẩu đại liên 30 bên trái ngưng nhả đạn, tôi quay qua sờ thấy đầu Trung Sĩ Đức gục xuống, anh đã hy sinh. Tôi được lệnh Đại Úy Triết phải rút ra ngoài. Tôi báo cáo tình hình và cho biết tầu tôi bị trúng rất nhiều đạn súng lớn, trong đó có bị một lỗ lớn, nếu rút ra sẽ bị chìm. Về nhân viên, có Trung Sĩ Đức hy sinh, Trung Sĩ Thức thuyền phó Monitor bị thương nặng ở chân. Một phóng viên AP bị một viên đạn vô ngực, ông ta rất tỉnh, nhưng báo sự nguy hiểm sẽ đến với ông ta. Vài phút sau khi gặp thì ông ta cũng ra đi. Số còn lại tất cả đều bị thương, nhưng vẫn còn chiến đấu hữu hiệu. Chúng tôi phải tận lực mới đẩy lui được những đợt tấn công cướp tầu của địch.

Khoảng 11 giờ đêm, tiếng súng thưa dần. Tôi yêu cầu Đại Úy Triết cho vô tiếp cứu, nhưng vô hiệu. Nằm lại một mình cho đến khi im tiếng súng, chúng tôi 9 thày trò đã chuẩn bị tất cả vũ khí cá nhân, lựu đạn để nếu tàu bị chìm, không ở lại tàu được thì sáng hôm sau sẽ tìm đường bộ về Cái Bè. Nhưng nhờ trước đó chúng tôi đã cho cột dây an toàn từ bít sau lái lên gốc cây trên bờ, nên tàu không bị vô nước, nhờ đó mới kèm kéo về an toàn...”

* * *
Con rạch Ba Rài bắt nguồn từ Quận Lỵ Cái Bè dài trên 10 cây số, chảy ra sông Cửa Tiểu theo hướng Bắc Nam. Lòng rạch hẹp, nơi rộng nhất ở ngã ba Ba Rài - Cửa Tiểu, hai bên bờ rạch không quá 100 mét. Con rạch cắt một góc chéo 25 độ rồi uốn khúc, tạo thành một doi đất, bề ngang doi đất không quá 600 mét. Vì thế từ cửa rạch không thể nhìn thấy phía trong. Hai bên bờ cây rậm rạp, những hàng dừa đứng chen nhau như thành. Suốt cả chiều dài của bờ rạch như thế, nên cuộc đụng độ giữa một đơn vị chủ lực Việt Cộng với các đơn vị của sư đoàn 7 Bộ Binh, có cả Thủy Quân Lục Chiến từ mấy ngày qua. Hai bên cứ cầm chân nhau, không bên nào tiến lui được. Hai bên đều nhìn thấy nhau, chỉ cách mấy hàng dừa. Quá gần cho nên không thể gọi pháo binh tác xa. Quá rậm nên không có chỗ để trực thăng đổ quân tiếp viện. Vì thế, SĐ 7 BB đã trông cậy vào Hải Quân: Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong. Giang Đoàn 21 là một đơn vị kỳ cựu, nhân viên và sông nước quen nhau, và cả địch lẫn ta quần nhau cũng lắm.

Riêng Giang Đoàn 27 Xung Phong vừa mới thành lập, dưới quyền chỉ huy của Hải Quân Đại Úy Trần Văn Triết, một sĩ quan mới từ đơn vị biển đổi về sông. Sau mấy tháng huấn luyện, đây là lần đầu tiên Giang Đoàn 27 Xung Phong đem toàn lực ra quân, với tất cả các chiến đỉnh của Giang Đoàn 21 Xung Phong.

Nhiệm vụ của cuộc hành quân này là Hải Quân tiến vào rạch Ba Rài, hỗ trợ cho các đơn vị Bộ Binh rút từ Xã Xuân Sơn, phía Đông rạch Ba Rài sang bên kia rạch. Hải Quân, cả hai Giang Đoàn đã tiến vào. Dưới hỏa lực hùng hậu của các giang đỉnh, Việt Cộng đã án binh bất động. Đơn vị bạn đã rút an toàn và dùng tầu Hải Quân băng qua bên kia bờ. Tất cả đã diễn ra êm ả, từ 2 giờ cho đến 4 giờ chiều. Đoàn tầu bắt đầu rút, nước đã xuống. Tàn cây che phủ lòng sông, tối, lạnh. Việt Cộng đã phục sẵn tại doi đất gần cửa rạch và bắt đầu tấn công vào đoàn tầu của ta. Đây là một cuộc thử lửa khốc liệt giữa một đơn vị chủ lực của Việt Cộng và hai Giang Đoàn được coi là tinh nhuệ của ta.

Dù trận chiến đã diễn ra trên 30 năm, nhưng may mắn thay, các nhân sự nòng cốt của cuộc thử lửa này, hiện ở Mỹ còn nhớ được, và đã thuật lại qua các câu trả lời trên giấy hoặc qua các cuộc điện đàm mới đây. Đó là anh Nguyễn Ngọc Giang lúc ấy là Trung Úy, lên lon tại mặt trận trình bày ở phần trên; và anh Diệm, Đặng Diệm, người lăn lộn với Giang Đoàn 21 Xung Phong rất nhiều năm. Đặng Diệm kể:

-“Như anh biết, tôi cũng chẳng gan dạ gì, nhưng việc tới tay thì phải làm. Vùng sông nước này tôi hoạt động khá lâu nên khá rõ. Lúc đoàn tầu bị tấn công, tôi ở trên chiếc Monitor Command. Đại Úy Davis và Thiếu Úy Hoàng Hiền cũng ỏ trên tầu này. Hiền bị đạn, lăn lộn dữ lắm, mấy người ôm anh ấy để tránh rớt xuống sông. Lúc đã rút ra ngoài sông lớn, Đại Úy Triết đi Cái Bè họp với bên Bộ Binh. Trong Lúc ấy hệ thống truyền tin vẫn mở, tiếng Giang báo cáo, kêu cứu, tất cả các tầu đều nghe. Tôi kiểm chứng mật mã riêng với Giang. Giang trả lời rất nhanh. Tôi gọi 4, Giang đáp lại ngay 9, để 9+ là 13. Con số 13 chỉ có hai đứa tôi biết mà thôi. Tôi tin là Giang không bị địch áp đảo. Giang tiếp tục kêu tiếp cứu gấp rút. Các thuyền trưởng họ cùng mở máy nghe, họ nóng ruột quá. Chỉ huy Trưởng thì đã đi họp. Tôi bèn lấy quyết định một mình vào cứu Giang, và yêu cầu ai tình nguyện thì theo tôi. Phải nói là lúc đụng trận thì mình không sợ, mình phản ứng tự nhiên. Giờ cuộc đụng độ đã tàn. Nhớ lại Lúc Đại Úy Davis ngã xuống và Hoàng Hiền lăn lộn đầy máu, tôi cũng cảm thấy hãi chứ. Mà chắc gì địch không phục ở cửa sông. Có thể là chỗ tầu Giang đã yên, yên thật, hay yên giả. Nhưng làm sao khác được, tôi lấy một chiếc Command, 2 LCM và 2 chiếc fom trở lại rạch Ba Rài. Tôi nói với Giang: “Khi nào nghe tiếng tầu tôi thì lấy đèn pin làm hiệu...” Phải nói là liều chứ anh, run lắm, sĩ quan chỉ có mình tôi. Con rạch tối om, lạnh ngắt. Khi nghe Giang báo cáo: “Tôi đã nghe tiếng tầu” là lúc tôi thấy ánh đèn pin lập lòe của Giang vẫy vẫy. Tôi cho hai chiếc fom khai hỏa phía bờ đối diện. Tầu tôi cặp vào tầu Giang. Đón được Giang và các nhân viên trên chiếc Combat qua tầu tôi, tất cả chúng tôi đều bê bết náu. Tầu tôi lùi ra, để cho hai chiếc LCM cặp vào chiếc Combat kéo về. Lúc trở ra. Trời đã khuya lắm, có lẽ đã quá nửa đêm. Vừa đi vừa bắn. Về đến cửa Mỹ Tho, như anh biết là 4 giờ sáng. May mà không có sự gì xẩy ra, nếu tụi nó phục sẵn, mình làm sao mà không bị thiệt hại. Lúc ấy thật khó nói...”

* * *


Tiểu vận đĩnh LCVP tuần tiểu trên sông.

Trong khi cả hai giang đoàn hầu như dốc toàn lực cho cuộc hành quân này, thì riêng tôi được phân nhiệm đem một chiếc LCM và hai LCVP, chở theo một trung đội bộ binh, đổ bộ bên tả ngạn sông Tiền Giang, đối diện với vùng hành quân trên để nghi binh. Tôi còn được chỉ thị kỹ chỉ cần đổ quân gần bờ, bắn cho có tiếng súng, đừng vào sâu, và phải rút về lúc quá trưa, để còn liên lạc với bên Tiểu Khu lo việc làm lễ gắn huy chương cho vị cố vấn tiền nhiệm, và cũng là lễ giới thiệu Đại Úy Davis, tân cố vấn.

Như đã dự trù, tôi đem mấy chiếc tầu về đến căn cứ lúc 2 giờ, nằm ngủ một lát để lát nữa qua Tiểu Khu mượn ban nhạc, thì anh Trung Sĩ Vô Tuyến gõ cửa, tôi bảo “vào đi”. Anh ta nói, mặt xám ngắt:

- Ông thầy xuống Phòng Vô Tuyến đi. Tôi chạy xuống ngay, đóng cửa lại, và mở cả hai hệ thống truyền tin. Tiếng súng vọng lại từ mặt trận dội về xen lẫn các cuộc đối thoại giữa các chiến đỉnh trên hệ thống chỉ huy. Có Lúc tiếng nổ dội về, và hệ thống âm thoại tắt.. .Đúng là đụng to rồi. Tôi ra lệnh cho đóng cổng trại, cấm trại 100%, để sẵn sàng nhận lệnh từ mặt trận gọi về. Tất cả đã diễn tiến như anh Giang đã tả”.

Khi tiếng anh Diệm êm ả gọi, cho hay: “Tụi này sẽ về đến căn cứ độ 40 phút nữa. Sẵn sàng xe cứu thương và y tá...”

Tôi khoác áo ấm đeo súng Colt và đèn pin đứng đợi tại cầu tầu cùng với xe cứu thuơng và cáng. Đoàn tầu đã nhìn thấy lấp lánh tiến về từ từ cặp vào cầu tầu. Diệm bước lên đầu tiên, dìu Giang theo. Dưới ánh đèn vàng, chỉ thấy toàn người Giang đầy máu. Giang vẫn đi lại được. Tất cả nhân viên trên chiếc Tiền Phong đỉnh cuả Giang lên ngồi kín chiếc xe Hồng Thập Tự. Sau đó, một xe khác chở cái băng ca, xác cuả Đức Râu vàng khè và toàn thân sũng máu... Tất cả lặng lẽ di chuyển qua Bệnh Viện Dã Chiến. Các nhân viên còn lại, kể cả dưới tầu, trên căn cứ xúm lại lấy ống bơm xịt, rưả chiếc tầu vừa từ mặt trận về. Trời sáng dần, mặt sông đã óng ánh bóng nắng, và cũng là Lúc tôi nhận thấy nước từ trên chiến đỉnh chảy xuống vẫn đẫm đẫm máu đỏ.

Trời sáng hẳn, cả cầu tầu đã trở lại êm ả, sạch sẽ như thường lệ.

Tổng Kết Trận Ba Rài

Được chỉ huy bởi một vị sĩ quan vừa từ biển đổi về sông, kinh nghiệm chiến trận kể như còn “lỏng tay”, đây là một cuộc tranh hùng khốc liệt. Dù địch đã chuẩn bị sẵn chiến trường, có đủ yếu tố bất ngờ và giờ giấc thuận tiện: Lúc 4 giờ chiều, giờ của họ, nước thấp, chúng ở trên cao bắn xuống. Nhưng ta đã “đáp ứng” ngon lành. Không ai có con số chính xác về tổn thất của địch, nhưng xác địch nổi trên mặt sông nhiều gấp 3, 4 lần bên xác của ta, đó là chưa kể số thương vong trên bờ mà địch đã vội vã mang đi chắc cũng không dưới 100, vì 57 súng đủ loại để lại là một chứng minh cụ thể. Bên ta tuy có một tầu chìm, số thương vong chưa quá 20. Và vũ khí được bảo toàn.

Tại đơn vị, những phái đoàn lên xuống tấp nập. Đầu tiên là các cô nữ xã hội của Thiếu Úy Sa. Các cô đem dầu gió, vải trắng làm khăn tang. Lần lượt là thân nhân của nhân viên đơn vị. Tất cả ngồi chật ních, rũ rượi ở Câu Lạc Bộ. Hải Quân Đại Tá Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân cũng có xuống. Ông xuống thăm chiếc Monitor Combat HQ 6001. Ông nhìn lỗ thủng do đạn địch bắn vào, ông xòe bàn tay che chưa kín lỗ đạn, và nói với Giang:

-“Có bàn tay trời che chở cho anh”.

Trong lúc ấy tại khúc sông con rạch Ba rài, Bộ Binh đóng đầy. Những đám khói hương cắm dọc theo mé sông, những vũng máu đen đặc, tanh nồng. Vũ khí địch bỏ lại tất cả là 57 khẩu đủ loại. Dưới nước, tầu của mình ủi bãi. Nước vẫn lên xuống điều hòa. Lâu lâu từ dưới đáy sông lại trồi lên một xác. Tầu mình ghé lại lật xác lên nhận diện. Bạn thì vớt lên, lấy mền đắp lại. Địch thì đẩy ra cho trôi theo giòng nước. Mấy ngày sau, xác Bảo mới nổi lên. Trước khi nổi có một đám bọt xủi, rồi một cánh tay nhô lên trước. Tay phải. Bàn tay còn cầm cái bút nguyên tử mầu vàng... Bây giờ sau hơn 30 năm đã qua, tôi chẳng còn nhớ được kỹ. Chỉ biết chắc là Trung Sĩ Thinh từ nhà xác về, đem theo các thẻ bài là tôi ký giấy khai tử cho các người chết, kèm theo các thủ tục xin quan tài kẽm và lệnh di chuyển cho các quân nhân tháp tùng.

* * *
  

Một buổi trưa ngày nghỉ, tôi trực nhật, ngồi từ trên lầu phòng ngủ sĩ quan, nhìn qua bên kia Cù Lao Rồng, những mái nhà xen giữa mấy lùm cây. Trẻ con nô đùa dưới mé nước. Lấy ông nhòm nhìn kỹ vào phiá trong, có những ông già ngồi trước hiên nhà đang lặng lẽ uống rượu. Đàn vịt, đàn gà chạy loanh quanh. Mấy bà già và các cô gái đun nấu gần đó. Cảnh trí êm ả, thanh bình. Nhưng tôi nghĩ: “Rất có thể các ông già kia là các mật báo viên của phiá bên kia. Địch lăn lộn, trà trộn với dân thật là xảo quyệt”.

Tôi đảo ống nhòm về phiá cầu tầu. Một đoàn chiến đỉnh nằm như ngủ. Riêng chiếc Tiền Phong đỉnh HQ 6001, tầu cũ của Đức Râu, có mấy người lính đi lại. Tôi theo dõi và tôi thấy họ xếp một điã đồ nhậu ra sàn tầu, một thùng bia Quân Tiếp Vụ. Tôi nghĩ: “Lại nhậu cho đỡ buồn đây...”. Nhưng không phải thế. Mấy nhân viên ăn mặc đàng hoàng, ngồi sau các thứ họ vưà bầy ra, rồi bật diêm, đốt nhang, cắm vào một ly gạo. Họ đang làm lễ, và tôi chợt nhớ, hôm nay 49 ngày cuả Đức Râu rồi đây. Tôi muốn xuống với họ, xong tôi nghĩ: “Thôi để họ tự nhiên”.

Cũng xung quanh thời gian ấy, một hôm cụ bà, thân mẫu của anh Hoàng Hiền tìm tới đơn vị để nhận lại các di vật của con. Cụ muốn lên căn phòng cũ, nơi HQ Thiếu Úy Hoàng Hiền đã ở. “Dạ, đây là giường nằm của anh ấy”. Cụ ngồi xuống mé giường, lặng lẽ. Cụ xòe bàn tay gầy vuốt lên mặt nệm. Đôi Lúc bàn tay cụ dừng lại như lắng nghe, như tìm chút hơi ấm nào của con còn sót lại. Cụ ngồi khá lâu rồi đứng lên. Cụ nói: “Nhà tôi cũng bị chết vì Việt Cộng, giờ lại đến nó...”. Cụ nói êm ả điều hòa như chuyện của ai. Mảnh sân đơn vị nắng bỏng. Cụ bước đi thong thả. Trên đầu cụ cuốn một mảnh khăn trắng dài, phủ xuống sau lưng. Bóng cụ đổ trên nền sân, cụ nắm chặt cây kiếm Hải Quân của cậu con trai trong lòng bàn tay nhăn nheo của cụ.

Bây giờ, đã cuối năm 1998, đọc cuốn Vietnam, the Decisive Battles (Những Trận Chiến Quyết Định tại Việt Nam), tác giả, ông John Pimlott, có nói đến trận Ba Rài. Tôi đọc kỹ, đây là một trận đánh khác, nhưng cũng xảy ra tại nơi trên, nhưng thời gian trận sau diễn ra vào ngày 15 tháng 9 năm 1967, trước hai tuần lễ đầy hai năm sau trận mà hai Giang Đoàn 21 và 27 Xung Phong đã chạm địch. Trong trận sau, các chiến đỉnh của Hoa Kỳ, loại mới, tối tân hơn (ATC), đã đụng với Tiểu Đoàn 263 D của Việt Cộng. Phải chăng đơn vị này của địch đã đụng với Hải Quân Việt Nam trước đó. Trận sau, dù địch có yếu tố tình cờ và địa thế đã chọn sẵn, địch cũng đã để lại 79 xác chết.

Một sự trùng hợp nữa rất lạ lùng, trận 29-9-1965, Đại Úy Davis đã chết. Trận sau, cũng có một sĩ quan Mỹ tham dự trận đánh, tên ông cũng la Davis (Wilbert). Ông ta sống. Và nơi diễn ra trận đánh đã được Mỹ đặt cho một cái tên ngộ nghĩnh là Snoopy’s Nose.

Với tôi, tôi đồng ý với Giang rằng, nếu trận năm 1965, vị chỉ huy Giang Đoàn 21 Xung Phong, HQ Thiếu Tá Huỳnh Duy Thiệp có mặt, tình thế chắc sẽ khác hẳn. Và, Đức Râu, vẫn dong duổi bén nhậy trên cặp Fom, con ngựa Xích Thố của Giang Lực, Việt Cộng khó có khả năng khai hỏa êm xuôi như vậy. Chính trận này, lần đầu tiên chúng dùng B 40 công phá đoàn tầu.

Đối Phương Đã Nói Gì Về Trận Ba Rài

Trong tập tài liệu lưu hành nội bộ nhan đề “Những Trận Đánh của Lực Lượng Võ Trang Đồng Bằng Sông Cửu Long”, do nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, năm 1997, trận Ba Rài đã được viết lại tỉ mỉ, và chiếm một số lượng trang từ 104 đến 126, người viết đề tên Trung Tá Nguyễn Thanh Sơn. Đây là một bài viết công phu, từ những nhận định địa hình, thời tiết, tình hình lực lượng hai bên, tình hình dân chúng, những giả thuyết trận liệt, rồi diễn tiến trận đánh và cuối cùng là kết quả và ý nghĩa của trận này.

Từ đó ta biết rằng đơn vị đối đầu với ta tại Ba Rài ngày 29 rạng 30-9-1965, là tiểu đoàn 261. Tiểu Đoàn này đã được trang bị vũ khí nặng. Riêng “Đại Đội Bộ Binh 1” của Việt cộng, có nhiệm vụ “chận đánh tầu địch trên sông Ba Rài”, có 3 khẩu DKZ 57 ly, 2 khẩu 12 ly 7, và 3 khẩu B 40. Trận đánh đã diễn ra ác liệt, phù hợp với những ghi nhậncủa phía HQVN ta. Có điểm kết quả trận đánh thì chúng khoác lác rất lạ, Việt Cộng viết nơi trang 119 rằng:

“Sau một ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt 500 tên địch. Bắn cháy và chìm tại chỗ 5 tầu chiến (có một tầu đầu hàng). Thu một cối 81 ly, 1 súng 12,7 ly, 2 đại liên, 8 các-bin, 1 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang quân dụng khác. Phá hủy một DKZ 5 ly, 1 súng 12,7 ly. Bắn rơi 5 máy bay.

Ta hy sinh 18 đồng chí (có 3 cán bộ trung đội).

Bị thương 32 đồng chí. Bị phá hỏng 1 B 40 và 4 súng tiểu liên”.

Thưa anh Nguyễn Thanh Sơn, không biết anh đã căn cứ vào đâu để có thể có kết quả như trên. Nếu có thì giờ, anh hãy lục lại loạt bài nhan đề “Đoàn Tầu Đi Vào Cõi Chết Để Tìm Ra Lối Sống”, đăng liên tục nhiều ngày khoảng đầu tháng mười năm 1965, trên nhật báo Tiền Tuyến, Sài Gòn, người viết đã ghi lại đầy đủ chi tiết về phía Quân Lực Việt Nam. Có đầy đủ các thiệt hại, và tên tuổi của người đã nằm xuống trong trận này. Đó là một trận đánh quả có gây xúc động tới các giới chức cao cấp của chúng tôi, vì trận này sĩ quan Hải Quân chết nhiều nhất: Hai người là Trần Ngọc Bảo và Hoàng Hiền. Phía Mỹ, Đại Úy Davis, vị tân cố vấn vừa đáo nhậm, đây cũng là lần đầu tiên các anh đã xử dụng B 40 đánh phá đoàn tầu. Một loại vũ khí mới và rất công hiệu. Và chúng tôi rất tiếc, “Con Ngựa Xích Thố của Giang Lực”, Trung Sĩ I Lê Phước Đức, người mà phía các anh đã khiếp hãi, đã treo giải “ai giết được Đức Râu thì sẽ được trọng thưởng”. Đó là nỗi đau đớn, thiệt hại của chúng tôi. Quả các anh có bắn cháy và chìm 1 chiếc tầu, trên có Bảo, bạn tôi chỉ huy. Tầu chìm, rồi chúng tôi lại vớt lên, kéo về. Một chiếc khác bị thiệt hại nặng, trên đó có Giang điều động. Chiếc tầu đó có thủng, không chạy được, nhưng đã không chìm. Phía các anh đã nhiều phen vừa hô “xung phong” vừa ào lên định cướp tầu. Mỗi lần như thế, lại một lần phía các anh gục xuống. Chỉ riêng với chiếc tầu này, khách quan mà nói, con số 20 người chết về phía các anh, có lẽ là con số quá nhỏ. Làm gì có chiếc tầu nào hàng các anh đâu? Trong khi đó, như bài viết ở trang 113, các anh đã phải đối đầu với “7 tiểu đoàn bộ binh, 8 khẩu 105 và 155 ly trực tiếp chi viện. Trên sông có 12 chiếc tầu chiến. Ngoài ra còn có phi cơ các loại tập trung chi viện cho cuộc hành quân càn quét này”.

Thưa anh Sơn, có thể các anh đã ước định sai số quân bên phía chúng tôi. Xin hãy giả thử chỉ một nửa quân số nói trên, họ lại là một loại binh chủng mà các anh kêu là “ác ôn, lính thủy đánh bộ”, họ đâu có phải là hàng chuối ở vườn, đứng im cho các anh tới hạ. Nếu quả các anh có một may mắn nào đó, tiêu diệt được độ một trăm người, tôi nghĩ cũng đã là oanh liệt lắm. Chiến công ấy do ai chỉ huy, ai là những “xạ thủ ngoan cường” của các anh, sao không thấy các anh nhắc đến?

Những luận cứ vu vơ đó chỉ làm cho tập tài liệu của các anh trở thành một trò cười, không còn một chút khả tín nào nưã. Chỉ có “18 đồng chí hy sinh”, vậy thì 57 khẩu súng đủ loại bỏ rải rác hai bên bờ sông Ba Rài là của ai. Các vũng náu đen đặc, và những xác chết nổi lên không đếm được trên sông Ba rài, các xác đều mắc quần áo kaki Nam Định, là xác chết nào hở anh Sơn ???

Thưa anh Sơn,
Khi cuộc chiến còn đang tiếp diễn, các anh cần thổi phồng chiến công để tuyên truyền, chúng tôi đọc đến nỗi phải phì cười nhưng vẫn còn thông cảm được. Nay cuộc chiến đã tàn. Cả khối Cộng Sản đã vỡ. Các anh đã phải mở cửa để long trọng đón kẻ thù cũ là “Đế Quốc Mỹ” vào như một thượng khách. Sự thực về cuộc chiến đã được từ từ phơi bầy. Lẽ ra đây là lúc các anh phải thật khách quan, tìm hiểu, đối chiếu tường tận để trả sự thật cho sự thật. Đó mới là thái độ trí thức của người viết sử. Anh đã không làm thế. Các anh đã không làm thế. Riêng anh, anh Sơn, anh viết bừa bãi, cẩu thả, đã đành. Trên anh còn có ông Phó Tiến Sĩ Phạm Gia Đức, người chịu trách nhiệm xuất bản. Ông Đức có lẽ đã không thèm nhìn lại bài viết của anh. Hoặc có đọc mà không có khả năng suy xét, nhận thức. Phải chăng ông ta là một ông tiến sĩ giấy? Học vị càng cao chỉ càng làm cho trò cười thêm lớn. Tuy nhiên nói đi cũng phải nói lại, chính sự ngộ nghĩnh nghịch lý nói trên đã giúp phía chúng tôi ít phải mất thì giờ so sánh, biện bạch. Và bên cạnh đó, anh Sơn còn dẫn một câu (mà không nêu rõ danh tánh) rằng: “Trận đánh này chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 261 đã xác định lực lượng nguy hiểm trực tiếp trước mắt là đoàn tầu chiến trên sông Ba Rài” (trang 123). Thế là đủ.

Tôi xin dừng ở đây nghe anh Sơn. Trước khi bài này được in và chuyển ngữ, chúng tôi sẵn sàng đón nhận ý kiến từ mọi phía, kể cả tác giả bài viết của nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.

* * *
Ôi Những Anh Linh Bên Giòng Sông Cũ

Bây giờ, tính từ năm 1967 đến nay, đã trên 30 năm. Cuộc chiến cũ đã nhạt nhòa. Người chiến binh Mỹ đã trở lại Việt Nam du lịch. Những con thuyền gỗ có mái che, chở các du khách lướt trên mặt nước đục ngầu Cửu Long Giang được in trên các báo Mỹ. Và tôi chắc, từ hải ngoại, có lẽ đã không thiếu bà con, bằng hữu chúng ta trở lại thăm thân nhân, chốn cũ. Có ai đã tới Mỹ Tho không? Trước khi đến Mỹ Tho, từ Sài Gòn đi xuống bằng Quốc Lộ 4, chúng ta gặp tỉnh lộ 29 xuôi Nam. Qua Mỹ Hạnh Trung, vào Tỉnh Lộ 20, tới Long Điền, rẽ trái vào Tỉnh Lộ 12 ta sẽ đi qua một vùng đau khổ cũ. Phía mặt là Cẩm Sơn, phía Nam là Hiệp Đức, Xuân Sơn, ta sẽ gặp con rạch Ba Rài ở giữa đoạn đường này, tính từ Long Điền đến An Phú. Nơi đây vườn cây xanh tốt. Mận ở vùng này nổi tiếng dòn, đỏ au như xác pháo hồng mùa Xuân. Con rạch Ba Rài ấy có các con thuyền đi lại. Các cô thiếu nữ má hồng trong áo bà ba tươi mát, quần Mỹ A óng ả. Dưới sông trẻ nhỏ bơi tắm nô đùa. Các cô gái và trẻ em này được sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến đã tàn. Họ có biết đâu rằng, dưới lòng con rạch này, chắc còn có những nắm xương nằm từ bao năm cũ. Và hàng cây bên sông, cây già trăm tuổi, có còn nhớ một thời khói lửa đã bùng lên, và nếu ai tỉ mỉ, xem lại các thân cây, những vết đạn cũ, chắc có những đầu đạn sản xuất made in USA, và có cả những đầu đạn từ Nga Sô, Trung Cộng đem lại. Những người trai của cả hai bên trận tuyến, có khi là anh em một nhà, bạn bè một quận... đã phải ào ạt giết nhau. Những linh hồn oan khuất chắc còn lẩn khuất bên các gốc cây xưa.

Ôi những anh linh kẻ Nam Người Bắc
Chết là oan cho một cuộc tương tàn

Là quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta đã làm tròn sứ mạng được trao cho. Thời cuộc đã gọi, ta nhập cuộc. Chúng ta đã anh dũng hành động. Bạn bè ta đã anh dũng hy sinh. Các bạn đích thực là những kẻ anh hùng. Tôi ao ước có một ngày về thăm chốn cũ. Tôi sẽ ngồi bên bờ con rạch Ba Rài, dưới bóng mát của các cây ăn trái, tôi sẽ cầu nguyện, sẽ đọc một thời kinh Giải Oan cho những người năm xuống tại nơi này. Hỡi Nguyễn Ngọc Bảo, hỡi Hoàng Hiền, hỡi Lê Phước Đức, tức Đức Râu, và bao nhiêu người nữa. Tôi ngưỡng mộ các anh. Xin các anh hãy lắng lòng nghe kinh mà siêu thoát. Tổ Quốc ghi công các bạn.

Phan Lạc Tiếp
Tháng 11/98 - 2/99

Bài viết này được cô đọng qua các cuộc phỏng vấn bằng thư, bằng điện thoại giữa người viết và anh Nguyễn Ngọc Giang, Đặng Diệm, trong phần có dấu ngoặc kép(“....”) là nguyên văn lời các anh
( Tân Sơn Hòa chuyển )


nguồn : batkhuat.net
 

Tuesday, March 06, 2012

May Mà Có Em.



Quỳnh lấy vé máy bay về Việt Nam một cách vội vàng, mấy ngày nay nàng ăn, nói, đi, đứng như người mộng du. Tình cờ sang Cali dự đám cưới người cháu, Quỳnh gặp lại Trang, người bạn học thân nhất, ngồi cạnh nhau trong giảng đường Văn Khoa. Trang cho Quỳnh biết mới sang Mỹ được hai tháng. Khi Trang về thăm quê nội ở Trà Vinh, nàng đã tình cờ gặp Tân, thương binh cụt một chân, ngồi bán vé số ngoài vỉa hè độ nhật. Nghe tin Tân còn sống, tim Quỳnh co thắt, toát mồ hôi và xây xẩm cả mặt mày. Quỳnh thì thầm như người mất hồn: “Trời ơi! Tân ơi! Anh còn sống sao? Mấy chục năm rồi, Tân ơi! Anh có biết rằng em tiếc thương anh ngần nào không? Cám ơn trời Phật đã cho Tân còn sống.” Dù hoàn cảnh thế nào Quỳnh cũng phải trở về gặp lại Tân! Gặp lại sự sống của chính nàng.
Theo gia đình, Trang dự lễ mãn Khóa 22 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ngồi trên khán đài trong Vũ Đình Trường, sau bài diễn văn của Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng, tiếng loa uy nghi dõng dạc:
- Quỳ xuống, các sinh viên sĩ quan.
Sinh viên sĩ quan thủ khoa nhận kiếm, cung bắn đi bốn hướng tượng trưng chí trai tang bồng hồ thỉ, sau khi hàng ngàn sinh viên khác nhịp nhàng quỳ xuống thẳng hàng để được gắn cấp bậc sĩ quan.
- Đứng lên, các tân sĩ quan.
Chỉ cần hai động tác quỳ xuống, đứng lên với cấp bậc trên cầu vai, họ đã phải bỏ biết bao tháng ngày gian lao, những bữa cơm chan mồ hôi, nước mưa trong rừng cao su... ngoài bãi tập.
Trên hai mươi năm qua rồi, đêm mãn khóa bập bùng kỷ niệm vẫn còn mới nguyên trong tâm hồn Quỳnh, đêm định mệnh để Quỳnh quen Tân do anh trai Trang; người bạn cùng khóa với Tân giới thiệu.
Ngồi trong xe cạnh nhau, hai người chỉ trao đổi những lời thăm hỏi xã giao chừng mực. Ở Tân, Quỳnh thấy người con trai đã được tôi luyện qua gian lao, nắng mưa quân trường, tóc hớt cao, nước da bánh mật sạm nắng, tự dưng với tuổi mười bảy của đứa con gái mới lớn, Quỳnh thấy thương và tội nghiệp Tân quá đi thôi. Tân từ biệt mọi người - sau khi xin địa chỉ Quỳnh- ra bến xe miền Tây về quê thăm mẹ! Tân chỉ có hai mẹ con.
Trước ngày ra đơn vị, Tân chọn binh chủng mũ nâu Biệt Động Quân như lời tâm sự: “Không đi lính thì thôi, đi phải chọn binh chủng xứng đáng và phải đánh đấm ra trò”. Tân có đến thăm Quỳnh đi phố, ăn trưa và trong bóng tối rạp Ciné Lê Lợi, cầm tay Quỳnh, Tân nói lời từ giã:
- Mai anh đi! Quỳnh ở lại vui! Ráng học giỏi.
Tân ra đơn vị, Quỳnh thấy hụt hẫng trong lòng vì tình tiết thương tâm trong cuốn phim “Le temps d’aimer et le temps de mourir” (Một thời để yêu và một thời để chết) mà Quỳnh và Tân đã xem! Suốt thời gian dài sau này Quỳnh cứ tự hỏi: “Tại sao có một thời để yêu lại phải có một thời để chết???”
Chiến trận đã cuốn Tân đi biền biệt! Những địa danh mịt mùng xa xôi: Bình Định, Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, Phá Tam Giang... tiếp nối trên đầu mỗi cánh thư đầy ắp yêu thương của Tân gởi về; một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi mà nhiều lần Quỳnh đã mang vào giấc ngủ.
Tình yêu qua những cánh thư đã làm Quỳnh trưởng thành, nàng đọc báo, nghe đài phát thanh, tin tức những trận đánh lớn đã khiến nàng bỏ ăn! Đóng cửa nằm yên trong phòng một mình.
Quỳnh thường đi chùa! Một lần nghe có ông thầy ở Thủ Đức rất tài; làm phép trong tờ giấy bạc xếp thành hình tam giác, tránh được lằn tên mũi đạn. Quỳnh vội vàng thỉnh phép bọc bằng vải nhung tím, ép nylon gởi cho Tân và nàng bắt buộc Tân phải đeo bên mình, Tân phải sống để yêu thương nàng.
Lâu lâu, Tân gửi cho nàng gói mè xửng, chiếc nón bài thơ đánh dấu những địa danh chàng đã đi qua. Nhận được quà của Tân gởi về Quỳnh cảm động mừng rơi nước mắt.
Ra trường chưa được hai năm Tân đã được thăng cấp tại mặt trận hai lần và giữ chức vụ đại đội trưởng. Lần này, đơn vị Tân tham dự hành quân vượt biên sang Lào! Lam Sơn 719. Tiểu đoàn Tân vừa được đổ xuống một đỉnh đồi, xe tăng địch đã nằm sẵn từ chân đồi dàn hàng ngang tiến lên! Cái giá phải trả cho một trực thăng của Bộ Tư Lệnh Hành Quân đã bị bắn rớt, và phóng đồ hành quân đã rơi vào tay địch trước đó hai ngày. Sau hai giờ chiến đấu bằng lựu đạn, đơn vị Tân đã bị tràn ngập. Thân nhân gia đình đến hậu cứ đơn vị hỏi thăm tin tức về chồng con họ một cách nhiệt tình, tự nhiên. Thấy Quỳnh đứng rụt rè bỡ ngỡ, người sĩ quan hậu cứ đến hỏi:
- Xin lỗi cô tìm ai?
Quỳnh lí nhí:
- Dạ! Em muốn biết tin tức Trung Úy Tân, Đại đội Trưởng.
- Cô là gì của Trung Úy Tân?
- Dạ! Vợ.
Má Quỳnh ửng đỏ. Người sĩ quan hậu cứ ranh mãnh trả lời nàng:
- Đơn vị đang trong vùng hành quân! Có tin tức gì tôi sẽ thông báo cho bà sau.
Chữ bà đã làm Quỳnh ngượng ngùng làm sao ấy. Nghĩ cho cùng rồi cũng đúng thôi. Quỳnh đã trao đời con gái cho Tân sau lần thăm ở Pleiku, khi Tân đang nằm điều trị ở Quân Y Viện để gắp một mảnh lựu đạn xuyên vào vai. Quỳnh chưa biết đam mê xác thịt, nàng muốn có con với Tân. Nếu lỡ Tân không về nàng còn giữ được giọt máu cho Tân! Cho mẹ Tân có người nối dõi tông đường! Quỳnh không có thời gian chọn lựa trong vòng tay Tân! Tình yêu đếm bằng phút giây với nỗi chết không rời! Tội cho Quỳnh biết bao, khi lỡ có người yêu ngoài mặt trận.
Quỳnh tỉnh dậy trong nhà thương, khi tuần sau lên hậu cứ và được người sĩ quan trực trả lời:
- Xin thành thật chia buồn cùng bà! Trung Úy Tân được báo cáo đã mất tích.
Ba năm trời Quỳnh đi mọi nơi, hỏi không biết bao người đội mũ nâu nhưng nàng không nhận ra được một tin tức nào của Tân.
Những ngày cuối tháng tư năm 1975, Cộng quân đánh vào Xuân Lộc pháo kích dữ dội vào Biên Hoa; gia đình gồm cha, mẹ Quỳnh và đứa em trai di tản, sau đó định cư tại thành phố Montreal, Canada.
Chuyện tình nàng và Tân phút chốc thoáng như mơ mà đã gần ba mươi năm! Một nửa đời người rồi còn gì!!!
Phi cơ ở độ cao, Quỳnh kéo chăn đắp lên ngực và thì thầm với chính mình:
- Tân ơi! Em phải về gặp anh! Dù thế nào em cũng không thể dối lòng mình được, em yêu anh suốt cuộc đời này.
Người tiếp viên thông báo, phi cơ đã vào địa phận Việt Nam.
Trước khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phi cơ đảo đi một vòng lớn, qua khung cửa kính Quỳnh vẫn thấy thửa ruộng, mái tranh lụp sụp, sự nghèo đói làm vòng đai rộng lớn bao quanh thành phố Sài Gòn hoa lệ.
Qua báo chí, Quỳnh biết rằng hơn bảy mươi lăm phần trăm dân tộc mình là nông dân, suốt đời úp mặt xuống bùn cũng không kiếm đủ miếng ăn cho gia đình! Cộng thêm sự áp bức, bất công! Giàu sang chỉ dành riêng cho thành phần thiểu số cai trị và tất cả thảm trạng đó điều xuất phát ở cấp lãnh đạo có vầng trán quá thấp! Với vầng trán đó, họ đưa một dân tộc cần cù siêng năng thông minh trở nên nghèo đói nhất thế giới. Sài Gòn bây giờ là ô nhiễm, xe cộ đủ loại chen chúc luồn lách vô trật tự! Sự công xúc tu sỉ xảy ra ở mọi gốc cây, nhiều lần Quỳnh phải quay mặt đi vì hổ thẹn.
Ra xa cảng miền Tây, đón xe tốc hành, Quỳnh về Trà Vinh, thành phố Quỳnh đến lần đầu. Quỳnh xuống xe với hai chiếc va li nặng trĩu. Ngơ ngác cố nhớ lời Trang tả, nàng đi lần về phía đầu chợ; thành phố đã lên đèn.
Hàng chục anh xe lôi, xúm quanh hỏi Quỳnh về đâu? Nàng hỏi thăm Tân, cụt chân bán vé số ở đầu phố chợ. Có người nhanh nhẩu trả lời:
- Trung úy Tân! Biệt động Quân bán vé số! Cô lên xe tôi chở đến nhà ổng cho.
- Tân! Biệt Động Quân! Những tiếng thân thương Quỳnh mừng khôn tả.
Quỳnh đền ơn người chạy xe lôi hậu hĩnh! Trước khi mở cổng bước vào căn nhà ngói ba gian loang lổ gạch vôi nói lên đời sống khó khăn của chủ nhân nó. Quỳnh đưa tay đè lên trái tim, nén xúc động, Quỳnh gõ cửa. Người đàn ông chống nạng bước ra! Nhìn sững nàng! Miệng há hốc kinh ngạc! Đất như sụp dưới chân Quỳnh.
Tân không còn tin ở mắt mình:
- Có phải Quỳnh của anh đây không?
Nàng phóng tới ôm chầm lấy Tân:
- Vâng, em đây! Quỳnh của anh đây.
Ngoài ngõ, hàng xóm và trẻ em thật đông, tò mò nhìn vào. Người đàn bà tóc bạc như cước, từ nhà sau bước ra lắp bắp hỏi Tân:
- Cô này là ai vậy con?
Tân trả lời mẹ trong xúc động:
- Thưa má, Quỳnh bạn con.
Quỳnh chắp tay lễ phép chào bà. Mẹ Tân bước tới ôm tay Quỳnh vừa mếu máo khóc, vừa nói:
- Thằng Tân gặp lại con! Bây giờ có chết bác cũng vui lòng.
Mẹ Tân vén tay áo lau nước mắt. Tân chống nạng phụ Quỳnh mang mấy va li vào nhà.
Quỳnh đi tắm, thay đồ mát và bữa cơm đạm bạc được dọn ra. Ba người cầm đũa, Quỳnh ăn thật ngon miệng! Mấy chục năm ở Canada làm gì có những món này. Tân và mẹ nhìn Quỳnh ăn một cách ái ngại.
Gắp cho Quỳnh bông so đũa luộc, mẹ Tân hỏi Quỳnh:
- Cháu ở đâu về? Lập gia đình được mấy đứa con rồi?
Nàng liếc sang Tân, hình như anh hồi hộp chờ câu trả lời của Quỳnh.
- Thưa Bác, con ở Canada về. Con chưa lập gia đình. Dạ thưa bác, nãy giờ con quên hỏi thăm về vợ con anh Tân.
Tân ngượng ngùng cúi đầu và mẹ Tân cười, niềm vui trong ánh mắt:
- Bác đã tám mươi tuổi rồi! Thèm cháu nội lắm. Thằng Tân nhiều lần tâm sự với bác, thân nó tật nguyền và suốt đời nói chỉ thương mỗi mình con thôi! Có mấy mối được lắm, nết na có học, nhưng nó đều từ chối. Mỗi chiều bán vé số về tắm rửa cơm nước xong, nó nằm trên võng mắt nhìn lên tấm ảnh nó và con chụp chung chưng trên bàn viết đó. Tay đàn, miệng hát tới khuya. Lần nào bác cũng nghe nó hát bản... Em lây cu... lây cưa... gì đó. Nó hát bản đó hoài sao không chán. Nó nói bản nhạc đó là cuộc đời nó.
- Nghe xong, Quỳnh buông đũa, ngưng ăn, nắm chặt tay Tân và Quỳnh quay mặt đi để dấu dòng nước mắt tuôn trào. Hồi lâu, nén xúc động, nghẹn ngào Quỳnh hỏi:
- Anh thương em nhiều đến thế sao Tân?
Tân xoa xoa vai Quỳnh giọng như muốn khóc:
- Quỳnh! Em có biết tình yêu và hình bóng em đã nuôi sống cuộc đời tật nguyền của anh.
Hai người dìu nhau ra ngồi trên băng đá trước hiên nhà. Gió đi lào xào trên tàng cây vú sữa xum xuê trước ngõ, với giọng xúc động, Tân kể lại diễn biến cuộc hành quân sang Lào. Thiết giáp Cộng quân tràn ngập đơn vị, Tân bị đạn đại liên tiện đi mất chân trái. Tân bị bắt làm tù binh, bị giam cầm tại các tỉnh thượng du Bắc Việt, mười ba năm bị giam cầm, cách biệt với thế giới bên ngoài! Mười ba năm ở địa ngục trần gian.
Năm 1985 họ thả anh, về đây sống với đời buồn tủi tật nguyền, hằng ngày anh đi bán vé số. Hai mẹ con sống cuộc đời cháo rau túng thiếu trong căn nhà kỉ niệm của ba anh, người sĩ quan dù đã chết trong trận Điện Biên Phủ.
Quỳnh cũng kể cho Tân nghe, từ năm 1972 sau nhiều lần hỏi thăm, kiếm tìm, đơn vị cho biết Tân đã mất tích.
Tháng 4 năm 1975 gia đình nàng di tản và định cư tại Canada; cha mẹ nàng đã qua đời. Nàng làm việc ở một bệnh viện, em trai nàng đỗ bác sĩ đã lập gia đình được hai con. Riêng Quỳnh vẫn ở vậy.
“Em nghĩ rằng anh đã chết và em sẽ sống với hình bóng anh suốt cuộc đời này. Bây giờ đang ngồi bên anh em cứ nghĩ mình nằm mơ.”
Tân cúi xuống, vén tóc Quỳnh, hai người hôn nhau say đắm. Một nụ hôn của ba mươi năm và dài bằng nửa vòng trái đất.
Buông nhau ra, Quỳnh nũng nịu:
- Em muốn anh đàn và hát cho em nghe.
Tân gật đầu và Quỳnh vào nhà mang đàn ra. Dáng hao gầy, gương mặt nhiều nét kỷ hà học, dạo phiếm và Tân cất tiếng hát. Lời bài hát của một thi sĩ té lầu chết trong một cơn say và Phạm Duy phổ nhạc:
“Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em, đời còn dễ thương...”

Tân có ngón đàn thật điêu luyện! Giọng hát khàn đục chuyên chở nỗi niềm chia sẻ, xuyên suốt tim Quỳnh; trôi về thành phố núi của những cô gái má đỏ môi hồng, mái tóc ướt mềm. Thành phố đi năm phút đã về chốn cũ và trong khách sạn Bồng Lai, trên chiếc giường ra trắng muốt, nàng đã trao thân cho Tân trong một đêm mưa kéo dài.
Trời thật khuya. Trăng thượng tuần sáng vằng vặc. Quỳnh theo Tân vào phòng. Chiếc giường ngủ trải chiếu bong. Quỳnh ngất ngây trong vòng tay Tân. Mùi đàn ông, mùi nếp non rạ mới đã làm Quỳnh phiêu diêu trong hoan lạc tột cùng. Rõ ràng “đêm nay mới thật là đêm - ai đem trăng sáng trải lên vườn chè”.
Suốt ba tuần lễ ở nhà Tân, Quỳnh và mẹ Tân đi sắm đồ trang trí lại nhà cửa theo sự yêu cầu nhiều lần của nàng. Quỳnh thuê một chiếc xe du lịch đưa mẹ, và Tân ngắm cảnh Ao Bà Ôm. Tân chỉ cho Quỳnh nơi chú Đạt hôn cháu Diễm trong phim Yêu của Chu Tử do tài tử Anh Ngọc và Thanh Lan đóng. Những hàng cổ thụ, rễ dâng cao trên mặt đất! Mặt hồ gió mát! Phong cảnh tuyệt vời. Ba người cũng đi ngắm biển Long Toàn với những đồi cát chập chùng và những bữa ăn cua luộc ngon nhớ đời.
Bên Quỳnh, Tân như trẻ lại, ăn nói hào sảng như ngày nào khoác áo hoa rừng và đội chiếc mũ nâu.
Khỏi phải nói! Mẹ Tân thương quý Quỳnh qua cách đối xử phải đạo của nàng! Nhiều lần bà cảm ơn Quỳnh đã mang về đây niềm vui, hạnh phúc cho Tân, đứa con trai duy nhất và cũng là tài sản của đời bà.
Riêng Quỳnh, sau nhiều đêm ngỏ lời muốn Tân lấy nàng, Tân đã hỏi Quỳnh suy nghĩ kỹ chưa khi chọn một người tật nguyền làm chồng, trước khi chấp nhận,
Quỳnh chọn căn nhà cũ kỹ, có giếng nước mát lạnh, tàng cây vú sữa cho bóng mát suốt ngày, làm nơi cư trú suốt đời bên tình yêu nồng nàn của Tân.
Quỳnh cùng Tân dạo phố, không một mặc cảm ngại ngùng nào “bên người yêu tật nguyền chai đá”. Trái lại, Quỳnh còn thầm hãnh diện có người chồng đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương đất nước.
Trước khi Quỳnh trở lại Canada, gia đình Tân tổ chức một bữa tiệc, mời một ít bà con và một số hàng xóm cạnh nhà để tuyên bố lễ cưới giữa Tân và Quỳnh. Mọi người đều cảm động trước mối tình nồng thắm, cách chia gần ba mươi năm của hai người. Trong tiệc cưới, mẹ Tân đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy hạnh phúc của con trai mình.
Ba tháng sau, trên chuyến bay Cathay Pacific Airline, Quỳnh đã thu xếp mọi việc ổn thỏa để trở về sống suốt đời ở Việt Nam bên cạnh Tân - chồng nàng.
Khách cùng chuyến bay ngưỡng mộ nhìn Quỳnh, tay xách túi nhỏ và vai mang một hộp da như đựng nhạc khí kèn đồng.
Trong quầy khám hành lý, nhân viên hải quan hách dịch hỏi nàng:
- Sao không thấy bà kê khai hộp da bà mang trên vai. Chúng tôi được lệnh khám xét.
Quỳnh mở dây kéo, mọi người đều ồ lên một tiếng ngạc nhiên, khi nhìn vào bên trong lớp lót nỉ đỏ. Không có thứ nhạc cụ nào cả mà là một cái chân giả tuyệt đẹp.
- Bà mang chân giả này về cho ai? Nguyên do nào người này bị tật? Viên hải quan gắt gỏng.
Quỳnh trả lời một cách bình tĩnh:
- Nếu ở phi trường nước khác, tôi sẽ từ chối trả lời câu hỏi này. Nhưng ở đây tôi xin trả lời ông: Tôi mang chân giả này về cho chồng tôi! Anh bị thương trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở chiến trường Hạ Lào.
Sau một lúc bàn thảo, họ đồng ý cho Quỳnh đi. Đẩy xe hành lý bước nhanh một đỗi, Quỳnh còn nghe rõ câu nói hằn học lớn tiếng sau lưng cuả đám Hải quan. Nàngkhông thèm để ý, mỉm cười bước nhanh khi nhìn thấy Tân và mẹ vẫy tay chào nàng ngoài khung của kính bên kia đường.

 Tường Lam