Monday, June 17, 2013

Kỷ Niệm Ngày Quân Lực - Không Bỏ Đồng Đội.


Ngày 13/4/1949, Quân Đội Quốc Gia được thành lập dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại để đối đầu với lũ CSVN đang ẩn mình dưới áo khoác Việt Minh" do tên đại gian tặc HCM, một tội đồ của dân tộc lãnh đạo.

Ngày 26/10/1955, Chế độ VNCH được khai sinh bởi Tổng thống Ngô Đình Diệm, vị tổng thống dân cử đầu tiên của Việt Nam. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia kiêm tổng tư lệnh tối cao ... Ông đã cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Dù Ông đã trở về cát bụi trong cuộc chính biến 1/11/1963 và QLVNCH không còn hiện hữu trên quê hương sau ngày Quốc nạn 30/4/1975 nhưng danh xưng thân thương này vẫn được yêu mến, lưu giữ mãi trong lòng người dân miền Nam, nhất là trong con tim của Người Lính VNCH.

Ngày 19/6/1965, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã thay mặt đại gia đình quân đội trình diện quốc dân đồng bào nhận lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Quốc Gia trước tình hình nghiêng ngả của đất nước được trân trọng trao lại từ Chính Phủ Dân Sự của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Vì thế ngày này được gọi là Ngày Quân Lực.(xuất quân/Lục quân hành khúc)

Sau khi mãn khóa huấn luyện quân sự từ các quân trường, những Người Lính mới dù khác nhau về cấp bậc, địa vị trong đời sống quân ngũ nhưng họ đều mang chung gói hành trang "Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm" hiện diện khắp mọi miền đất nước với tinh thần cao cả "Vị Quốc Vong Thân" trên con đường "Bảo Quốc-An Dân". Ngoài sáu điều tâm niệm của Người Chiến Sĩ VNCH mà họ đã thuộc nằm lòng trong thời gian "thao trường đổ mồ hôi", họ còn có một tâm niệm khi ra đơn vị là "Không bỏ đồng đội" dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Trong cuộc chiến tang thương dài 20 năm với hằng triệu tấn đạn của khối CSQT được lũ CSVN trút lên quê hương MNVN, Người Lính VNCH đã đem tấm thân bé nhỏ hứng chịu vượt qua sức chịu đựng của con người để bảo vệ quê hương thanh bình, người dân được hạnh phúc, ấm no nơi hậu phương. Người Lính VNCH không quản ngại hiểm nguy lao vào vùng phòng không dày đặc, đội mưa pháo của quân thù để mang người chiến hữu, đồng đội thương binh ra khỏi vùng lửa khói ... Họ cũng chấp nhận trả cái giá đắc nhất là sinh mạng để mang người chiến hữu, đồng đội, cấp chỉ huy về với đơn vị, về với gia đình cho dù chỉ là một xác chết ... Ngoại trừ những trường hợp bất đắc dĩ mà chúng ta đành nghẹn ngào để Trung Tá Nguyễn Đình Bảo cùng một số chiến sĩ nhảy dù tử trận thuộc Tiểu Đoàn "Song Kiếm Trấn Ải" ở lại vĩnh viễn nơi ngọn đồi bão lửa Charlie trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 hoặc người hùng "Anh Không Chết Đâu Anh", trung úy Pháo Đội Trưởng của binh chủng Thiên Thần Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đương sau khi ra lệnh cho thuộc cấp rút lui trước sự tấn công tràn ngập biển người của một sư đoàn cộng quân, anh đã hiên ngang, bất khuất, can trường chiến đấu đơn độc đến viên đạn sau cùng anh dành lại cho anh để trở thành một bông dù sáng mãi trên ngọn đồi máu 31 Hạ Lào năm 1971 trong lòng quân dân Miền Nam ... Các chiến sĩ thuộc đơn vị thiện chiến Liên Đoàn 81 BCD đội mưa pháo, đi trong lằn đạn của quân thù trong 69 ngày đêm vừa chiến đấu giành lại từng tấc đất quê hương, chiếm lại từng căn nhà, góc phố của người dân vừa xót xa đào vội huyệt mộ để an táng 69 chiến sĩ đồng đội nơi chiến trường "An Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích - Biệt Cách Dù Vị Quốc Vong Thân" vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 hoặc các chiến sĩ "Tổ Quốc Đại Dương" xót xa, đau lòng nhìn Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo H10 quyết định đơn độc quyên sinh theo chiến hạm, Anh đã dùng chiến hạm làm cổ áo quan vùi thân xác vào huyệt mộ "lòng biển mẹ" trong trận chiến chống quân Trung Cộng xâm lăng để bảo vệ biển đảo quê hương nơi quần đảo Hoàng Sa năm 1974 .v..v...

Những người trai thời lửa khói dậy quê hương đã xếp áo thư sinh cùng với bút nghiên,hy sinh hạnh phúc cá nhân, vùi quãng đời thanh xuân trong lửa khói chiến tranh đi miệt mài trên mọi nẻo đường đất nước để bảo vệ quê hương, dân tộc. Trong một trận chiến nào đó từ chiến trường Bình Giã, Khe Sanh, Tống Lê Chân, Tân Cảnh, Huế, Dakto, An Lộc, Bình Long, Quảng Trị, U Minh, Đồng Tháp, Đông Hà, Cửa Việt, Pleiku, Kontum, Hạ Lào, Xuân Lộc .v..v... một viên đạn, mảnh pháo của quân thù đã oan nghiệt cướp mất phần thân thể của anh. Người chiến binh oai hùng ngày nào trở lại u buồn trên chiếc xe lăn hay khập khểnh đôi nạng gỗ xa lìa chiến trận để mang thân phận "Thương Phế Binh" suốt quãng đời còn lại. "Rồi đây mai này ai hỏi đến tên tôi, bạn ơi hãy nói khoác chiến y rồi. Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên, giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền, có về là khi nước non vui bình yên ...". Lời bài hát "Biệt Kinh Kỳ" hôm nao trong buổi đăng trình còn văng vẳng bên tai mà giờ đây nghe xót xa làm sao ...! Nước non chưa vui bình yên mà anh đã trở về bằng một hình hài không nguyên vẹn ...!

Chính phủ Hoa Kỳ bật đèn xanh cho khối CSQT xâm chiếm VNCH bằng Hiệp Định Ba Lê 1973. Ván cờ chính trị thế giới đã bắt cây cầu Hiệp Định Ba Lê 1973 qua con sông Bến Hải để CSBV công khai cưỡng chiếm MNVN năm 1975. Tháng 4/1975, cả miền Nam kinh hoàng ... Sài Gòn hổn loạn ... người chen lấn người để tìm đường di tản bằng mọi phương tiện khi quân giặc tràn về thành phố. Trong giờ phút tang thương này thì nơi Tổng Y Viện Cộng Hòa, các quân y viện ... những thương binh VNCH chưa kịp hoặc mới vừa được chữa trị xong, vết thương còn chảy máu ... Họ làm sao di tản ... Họ đành ở lại hứng chịu sự "khoan hồng" đê tiện của lũ mạo danh "chống Mỷ, cứu Nước" bằng những báng súng AK47 đánh phủ tấp nập lên người và họ bị kéo lê quăng ra đường như những con vật ... Những anh em TPB trên mọi miền đất nước biết chạy đi đâu ... Người thì không còn tay để chen lấn vào dòng người di tản ... Kẻ không còn chân hay cặp mắt để chạy thoát thân ... Họ chỉ còn biết buông xuôi thân phận cho số mệnh mà kẻ chiến thắng dành cho họ. Những năm sau ngày Quốc Hận, họ không thể ngồi trên mảnh mo cau vượt biển, không thể chống đôi nạng gỗ khập khểnh hay ngồi trên chiếc xe lăn tìm tự do bằng đường bộ ... Họ đành ôm mảnh đời bất hạnh lê lết, thoi thóp ngụp lặn đến tận cùng các ngõ ngách tang thương, thống khổ ... hứng chịu sự trả thù đê tiện, hèn hạ, dã man nhất dưới đôi dép râu trong địa ngục "thiên đàng cộng sản".

Ngày 30/4/1975 tàn cuộc chiến và những năm sau đó ... Chúng ta, những Người Lính VNCH oai hùng bị trói tay, gãy súng ... người thì hối hả kinh hoàng di tản trong đớn đau ... người thì lầm lũi bước đi trên quê hương đã mất, trốn tránh người quen để tìm đường vượt biển, vượt biên ... người thì sau những năm dài vùi chôn cuộc đời trong những ngôi mộ máu "Trại Cải Tạo" đã nghẹn ngào, xót xa bước lên phi cơ rời bỏ quê hương đi sang xứ người theo diện tù chính trị. Dù chúng ta rời bỏ quê hương theo phương tiện và diện gì đi nữa thì chúng ta cũng bỏ lại những người bạn đồng đội, chiến hữu lê lết thống khổ, tang thương trong tay giặc. Hai mươi năm chiến tranh, chúng ta sống chết có nhau ... sau ngày tàn chinh chiến thì chúng ta lại bất đắc dĩ bỏ lại nhau để ra đi lưu vong.. đau đớn, xót xa thay !

     Trong thời gian mười năm "bao cấp" 1975-1985, bởi sự lãnh đạo "tài tình" ngu dốt của Đảng nên đất nước cạn kiệt, khô cằn vì người dân bị vắt cạn máu và mồ hôi ... Đảng thoi thóp vì sự ngông cuồng láo phét "đỉnh cao trí tuệ", người dân thì thống khổ, cơ cực dưới tận cùng địa ngục trong thiên đàng hoang tưởng "xã hội chủ nghĩa" vì bị lũ người mang danh "chống Mỷ, cứu Nước" bóp nghẹt sự sống bằng cách cướp tiền bạc, tài sản,nhà cửa, bị ngăn sông cấm chợ, dù "bo-bo cũng không có ăn cho đủ no nhưng người dân đã chia sớt cho những mảnh đời Thương Phế Binh VNCH bất hạnh. Lũ người mạo danh "chống Mỹ, cứu Nước" đã hèn hạ, đê tiện trả thù lên cả người dân Miền Nam ... Thảm thương nhất là những anh em Thương Phế Binh VNCH ... Họ đã lê lết hít thở khói xe, bụi đường ... gặm nhấm nỗi căm hờn, uống dòng nước mắt uất nghẹn từng đêm để được sinh tồn trong khoảng thời gian này và sau đó làm đủ thứ việc như lê lết, khập khểnh trong nắng mưa rao bán từng tấm vé số, bán nhang, bán bánh kẹo, vá xe ... có người trở thành ca sĩ bất đắc dĩ nơi bến xe, bến phà, góc chợ gượng chút hơi tàn còn vương lại trong buồng phổi cất lên những bài nhạc lính của một thời trai trẻ dâng hiến cuộc đời khi khói lửa dậy quê hương để sinh tồn cho đến ngày hôm nay ... . Trong số những mảnh đời Thương Phế Binh bất hạnh, có những người từng là chiến sĩ xuất sắc đại diện cho các đơn vị xuất sắc về thủ đô Sài Gòn tham dự kỷ niệm Ngày Quân Lực. Họ hiên ngang, hào hùng, hãnh diện trong đoàn quân được chào đón, vinh danh bởi vị Tổng Tư Lệnh, các giới chức lãnh đạo cao cấp bên dân sự cũng như bên quân đội cùng với sự hân hoan chào đón nồng nhiệt của đồng bào tham dự đứng ở hai bên đường. Những tràng pháo tay hòa lẫn trong tiếng nhạc hùng ca vang lên giữa lòng thủ đô của quê hương đã tạo cho quang cảnh buổi lễ thêm phần long trọng, hùng tráng làm phấn khởi tinh thần những người trai sông núi (diễn văn của TT.NVT). Thế mà 38 lần ngày 19/6 lặng lẽ đến và âm thầm trôi qua trong xót xa kể từ ngày nghiệt ngã của quê hương ... những người trai thế hệ của một thuở hào hùng đó bây giờ lại là những mảnh đời bất hạnh nhất dưới tận cùng đáy sâu vực thẳm của thống khổ đang lê tấm thân tàn trên đôi nạng gỗ khập khểnh chống đỡ tang thương trên quê hương rách nát bởi thảm họa "giải phóng". Có người âm thầm trở lại nơi tổ chức kỷ niệm Ngày Quân Lực khi xưa, bộ quân phục oai hùng ngày nào chỉ còn lại chiếc áo trận bạc màu phủ thân thể xác xơ ... Anh lặng lẽ đứng tựa vào thân cây bên đường, phì phà điếu thuốc, đưa ánh mắt buồn xa xăm nhìn ... cảnh vật dù có đổi thay theo thời gian nhưng làm sao bôi xóa được hình ảnh ngày nào trong tim họ ... cảnh cũ còn đây mà chiến hữu, đồng đội xưa đâu ... hai dòng nước mắt chợt lăn dài ... Những giọt nước mắt của anh tuôn rơi không phải để tiếc nuối một thời dĩ vãng hào hùng đã qua mà những giọt nước mắt xót xa đó tuôn rơi cho một quê hương tự do không còn nữa ... Anh khóc cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân đã bị "giải phóng" thành tang thương, thống khổ ... người dân phải làm đầu tắt mặt tối để có những buổi ăn chan máu lệ ... Anh cúi đầu lau vội dòng nước mắt xót xa, khập khểnh đôi nạng gỗ lặng lẽ quay đi ... tiếng nạng lốc cốc khua dài trên đường tạo nên những cung bậc đau thương ... bóng dáng anh ngả nghiêng và khuất đi nơi một ngả rẽ trên đường ... một thời để nhớ, một thời để thương chỉ còn là kỷ niệm đớn đau hằn sâu nơi tâm hồn vỡ nát trong một thân thể không nguyên vẹn ...

Những anh em chiến hữu, đồng đội đã hiến một phần thân thể cho hai chữ "Tự Do" của quê hương ... Họ đã không may kẹt lại trong bàn tay của kẻ thù nơi quê nhà. Họ đã mang tấm thân không nguyên vẹn hình hài lê lết trên con đường đắng cay, thống khổ, tang thương nhất dài hơn 1/2 đời người ... Họ nuốt uất nghẹn, uống hờn căm hứng chịu sự trả thù đê tiện, dã man, độc ác nhất mà kẻ thù trút lên tấm thân tàn của họ. Sau ngày Quốc Hận 30/4/1975, dù thân thể họ TÀN nhưng họ không PHẾ ... Họ không ngồi yên há miệng trên chiếc xe lăn chờ chúng ta gởi quà về để kéo lê kiếp sống tang thương, thống khổ ... Họ không gục đầu trên đôi nạng gỗ lê mảnh đời bất hạnh chờ chúng ta đền ơn đáp nghĩa mà họ trông chờ chúng ta một điều khác ... Chúng ta phảì về ôm họ bằng vòng tay thân ái "Huynh Đệ Chi Binh" ... lau cho nhau những giọt lệ mừng vui trong ngày quang phục Giang San. Chúng ta sẽ tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực với những mảnh đời bất hạnh trên chiếc xe lăn được chúng ta và thế hệ hậu duệ trân trọng đẩy đi hàng đầu vì trong số những Người Lính còn sống sót sau cơn "Quốc Nạn" thì sự hy sinh của họ trong cuộc chiến và sự âm thầm hứng chịu những gì tang thương, thống khổ nhất sau cuộc chiến trên con đường dài hơn 1/3 thế kỷ mới thật sự xứng đáng cho chúng ta cúi đầu khâm phục "Vinh Danh" và "Tri Ân".

Trên con đường dài nhầy nhụa máu, mồ hôi, nước mắt ... lê lết nuốt hờn căm, uất nghẹn hơn 1/3 thế kỷ ... Ai còn ... Ai mất ... Bao nhiêu mảnh đời TPB bất hạnh đã kiệt sức buông rơi vĩnh viễn đôi nạng gỗ trên đường ... bao nhiêu anh em đã gục đầu trút hơi thở cuối cùng trên chiếc xe lăn ... bao nhiêu anh em đã cạn hơi, khép mắt muôn đời sau cơn ho rũ rượi kéo dài trong đêm khuya sau thời gian dài bệnh hoạn không tiền chữa trị và còn bao nhiêu anh em đang kéo lê cuộc đời người không ra người, ma chẳng ra ma, sống không ra sống, chết không ra chết trong cái thiên đàng máu "chủ nghĩa cộng sản" trên quê mẹ đã mất ..!

Chúng ta xót xa khi nhìn thấy hình ảnh thống khổ của đồng đội, chiến hữu đang lê lết hít thở khói xe, bụi đường trên đường phố để sinh tồn hoặc trực diện lau dòng nước mắt đớn đau, uất nghẹn nhưng chúng ta làm sao hiểu thấu từng tấc đất khổ đau trên mọi ngõ ngách tang thương nơi tận cùng địa ngục bằng họ. Chúng ta, những Người Lính còn sống,thân thể còn nguyên vẹn sau cuộc chiến tang thương kéo dài 20 năm, sau cơn quốc nạn thảm khốc ... may mắn đến được bến bờ Tự Do. Chúng ta lần lượt liên lạc được với nhau để thành lập những hội đoàn, đơn vị, các quân binh chủng, họp khóa để điểm danh ai còn, ai mất và cũng để gây quỹ giúp đỡ anh em, đồng đội TPB trong phạm vi nhỏ hẹp của từng đơn vị. Cho đến khi lão bà "Tổ Quốc Không Gian", cựu Trung Tá Hạnh Nhơn phối hợp cùng các chiến hữu một thời áo trận với sự tiếp tay của Trung Tâm Asia, các ca, nhạc sĩ tổ chức những buổi Đại Nhạc Hội "Cảm Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH" cùng với sự ủng hộ nhiệt liệt của đồng bào xa xứ đã thành công đáng kể thì chương trình "đền ơn, đáp nghĩa" những người đã hy sinh phần thân thể cho quê hương dân tộc mới được dàn trải rộng rãi đến hầu hết các anh em chiến sĩ quốc gia bao gồm những lực lượng bán quân sự như cảnh sát, lực lượng cán bộ Xây Dựng Nông Thôn và các gia đình tử sĩ, cô nhi, quả phụ trong đại gia đình VNCH.

Anh em TPB cảm động ... niềm cảm xúc từ tận đáy lòng dâng lên thành những dòng nước mắt đến nghẹn lời khi họ đưa tay nhận số tiền giúp đỡ từ hải ngoại gởi về tạm trang trải qua ngày trong cuộc sống thống khổ cùng cực, chữa trị bệnh hoạn ... những giọt nước mắt của họ tuôn rơi không phải vì món quà vật chất này mà vì tinh thần "không bỏ đồng đội", vì tình người dân xa xứ vẫn còn nhớ đến họ. Người nhận được sự giúp đỡ rất vui mừng ... người giúp đỡ cũng mừng vui. Đó là tình người ... chỉ có lũ cộng sản không phải là con người thì làm sao hiểu được hai chữ "Tình Người".


Hơn nửa kiếp, từng đêm dài trăn trở
Trong màn đêm, giọt lệ lén buồn rơi
Nuốt hờn căm, uất nghẹn hơn nửa đời
Manh áo vá tả tơi thân rách nát.

Mười năm trời, bao lần bươi đống rác (1975-1985)
Sống cầm hơi ... khoai hẩm, hạt bo-bo
Ngủ bụi bờ, thân buốt giá co ro
Phổi khô cạn ... từng cơn ho chợt đến.

Trong "biển máu" tang thương không bờ bến
Từ một ngày "Quốc Hận" Tháng Tư xưa
Ký ức buồn theo ngày tháng đong đưa
Nhớ ngày cũ nắng mưa thời binh lửa.

Cơm gạo sấy, lương khô ngày hai bữa
Nước sông hồ đỡ khát lúc dừng quân
Mảnh đất mẹ chai dày gót đôi chân
Đêm vọng gác Tống Lê Chân lộng gió.

Đời lính chiến, thân rày đây, mai đó
Đường chiến binh sương gió phủ đời trai
Gót chinh nhân xuôi ngược tháng năm dài
Gánh giang san quằn trên vai nặng trĩu.

Hai mươi năm đường chiến binh nào thiếu ...
Bước quân hành của hằng triệu thanh niên
Hiến tuổi xuân, xương máu khắp mọi miền
Trên đất mẹ ưu phiền loang lổ ... đạn.

Đường chiến binh bao lần đi tiễn bạn ...
Nhận huy chương trong tư thế nằm nghiêm
Khoác áo quan, nó lặng lẽ im lìm
Lon "đặc cách" buồn kèm thêm chữ "Cố".

Thương quê mẹ chiến chinh sầu vạn cổ
Trong hoang tàn máu đổ dựng cờ bay
Trận Cổ Thành, bao thằng mất chân, tay
Thằng lê lết ngày nay bán vé số ...

Tháng Tư Đen đất trời như sụp đổ
Lệnh tan hàng uất nghẹn súng rời tay
Đời lết lê thoi thóp sống qua ngày
Tính đến nay đã ba mươi năm lẻ.

Nhìn quê hương nát tan ... buồn lặng lẽ
Người chen người nối tiếp chuỗi tang thương
Dưới đỉnh cao của một lũ bạo cường
Bà cõng cháu khắp đường ... bán vé số.

Dù nắng cháy, mưa dầm hay bão tố
Góc chợ chiều lặng lẽ bóng đơn côi
Nhớ ngày xa ... lửa chinh chiến tan rồi
Sao hôm nay tim tôi còn rỉ máu.

Trên đất mẹ ... đã một thời đổ máu
Mà giờ đây lê lết để nuôi thân
Thằng góc đường bán bắp ... mất đôi chân
Thằng một mắt lưng trần bán chuối nướng.

Thằng đui mắt ru đời thân bại tướng
Lệ ngập lòng uất nghẹn ... nghẹn lời ca
Đời nắng mưa hơn nửa kiếp không nhà
Nay hè phố, mai bến phà, góc chợ.

Quê mẹ ơi ! Con còn mang món "Nợ"
Nợ quê hương, dân tộc giống Tiên Long
Nợ tiền nhân ... con để mất Non Sông
Thân vong quốc đau lòng buồn nghẹn tiếng

Tuổi thanh xuân lao mình vào cuộc chiến
Xa học đường, xa tất cả người thân
Súng trên tay "Bảo Quốc" với "An Dân"
Vui ngày tháng xa dần thời niên thiếu.

Mảnh đất mẹ giờ đây là manh chiếu
Ru mảnh đời bất hạnh khắp đó đây
Gượng lết lê tơi tả nuốt đắng cay
Chờ ngày mai Cờ Vàng bay "Phục Quốc".

Tháng Tư Đen, ngày Ba Mươi ... vong quốc
Hơn nửa đời uất nghẹn mãi trào dâng
Vết thương lòng ... trăn trở nhức cả thân
Ngày tháng cũ nhòa dần chìm giấc ngủ !


Kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 48.
Hoàng Nhật Thơ

Friday, June 14, 2013

Nhạc vàng tuyển chọn



Cuộc đời thăng trầm của Tướng Nguyễn Khánh.

Cuộc đời thăng trầm
của Tướng Nguyễn Khánh
________________________________________________________________________________________________ 
Trần Đại Hải
 
    Cựu Đại Tướng Nguyễn Khánh đã từ trần hôm Thứ Bảy (12.1.2013) tại Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California, thọ 86 tuổi.
Từng giữ chức quốc trưởng và thủ tướng, lại kiêm luôn tổng tư lệnh và tổng tham mưu trưởng quân đội trong giai đoạn 1964-1965, ông Khánh được xem là người phá kỷ lục về quyền lực tối cao trong lịch sử 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên giai đoạn ông nắm quyền là giai đoạn Việt Nam Cộng Hòa trở nên bất ổn nhất về mặt chính trị với những cuộc đảo chính cùng những cuộc biểu tình liên miên.
 Cơ hội đi lên
 Sau cuộc đảo chính 1963, nhân vật đứng đầu cuộc đảo chính là tướng Dương Văn Minh được "Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng" cử làm quốc trưởng. Tuy nhiên tư thế lãnh đạo của ông Minh không mạnh, hoàn toàn thụ động và bất lực trước sự hỗn lọan của tình hình, nhờ đó nên tướng Nguyễn Khánh có cơ hội đi lên.
Theo hồi ký của tướng Trần Văn Đôn thì có lần khi ba tướng Dương Văn Minh, Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn cùng nhân vật dân sự Nguyễn Ngọc Thơ diện kiến Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara với sự hiện diện của của Đại sứ Cabot Lodge và trùm CIA McCone, ông McNamara đã hỏi một cách bất lịch sư: "Ai là sếp ở đây?" (Who is the boss here?) 
Theo tướng Trần Văn Đôn thì thì lẽ ra ông Minh lớn phải nhanh nhẩu trả lời: "Me. I am!" tuy nhiên, ông ta chỉ liếc quanh bốn người rồi im lặng. Như vậy, chính ông Minh đã khiến người Mỹ xem thường, cho rằng ông không có đủ tư thế lãnh đạo.
Trên thực tế thì sau ngày 1.11.1963 quyền lực tổng thống mà ông Ngô Đình Diệm từng nắm đã bị phân tán nhiều nơi, nhưng không phải phân tán giữa tướng Minh và thủ tướng Thơ mà là giữa những thành viên của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng (HĐQNCM).
Quyền hạn của ông Thơ chỉ là thứ quyền ủy nhiệm mà tướng Minh trao cho ông chiếu theo hiến pháp lâm thời. Còn bên trong HĐQNCM, tướng Minh không hề là người lãnh đạo mà chỉ là nhân vật đứng đầu 12 tướng lãnh có quyền lực ngang nhau, trong đó không một cá nhân nào có quyền ra quyết định mà phải là quyết định tập thể.
Đúng lúc này, lợi dụng sự tê liệt của chính quyền ở giai đoạn tiền và hậu đảo chính, cộng sản đã phá vỡ hệ thống ấp chiến lược vốn được xây dựng một cách dàn trải và đầy tính trình diễn dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà. Cộng sản đã có thể kiểm soát một vùng nông thôn rộng lớn ở các tỉnh Long An, Định Tường, Vĩnh Bình và Kiến Hoà.
Tình hình đòi hỏi một lãnh tụ mạnh mẽ, linh họat và đầy sáng kiến. Người đó cần đi khắp miền quê để vận động và trấn an dân chúng, đến các đơn vị binh sĩ để khuyến khích và cổ vũ tinh thần. Tuy nhiên tướng Minh vẫn tỏ ra thụ động và bất lực. Ông chỉ lẩn quẩn ở Sài Gòn và tập trung sức lực cho việc thanh minh và giải thích những tin đồn chính trị hay những lời chỉ trích, thí dụ như tin đồn về xu hướng "trung lập hoá" Nam Việt Nam theo chủ thuyết De Gaulle.
Cả Sài Gòn tướng Minh cũng không làm chủ được tình hình.
Sau cuộc đảo chính, HĐQNCM thay đổi luật báo chí và kết quả là hàng loạt tờ báo ra đời. Đến khi bị báo chí chỉ trích, chính quyền lại ra một sắc luật báo chí mới, nhằm kiểm soát quyền ngôn luận. Còn tình hình chính trị thì hết sức hỗn lọan. Chỉ trong vòng 6 tuần sau ngày đảo chính, đã có đến... 62 đảng phái ra đời. Có những đảng cũ tái sinh rồi chia ra làm bốn, làm năm. Có đảng được thành lập từ những chính trị gia vừa trở về sau khi lưu vong bên Miên, bên Pháp. Có đảng chỉ loe hoe ông đảng trưởng và vài ba đảng viên. Các đảng phái ô hợp này không đóng góp được gì cho tự do dân chủ ngoài việc thi hành quyền tự do chỉ trích chính phủ và chỉ trích lẫn nhau một cách ô hợp.
Tình hình tệ hại đến độ có tờ báo mỉa mai rằng sự khắt khe của ông Diệm và ông Nhu thế mà đúng: họ biết rằng Việt Nam chưa đủ trưởng thành để xây dựng một nền dân chủ lành mạnh.
Để “lành mạnh hóa” sinh họat chính trị HĐQNCM giao cho đại tá Phạm Ngọc Thảo hai nhiệm vụ: thứ nhất, thành lập "Hội Đồng Nhân Sĩ", thứ hai, cải tổ để các đảng phái hợp nhất thành, ba hay bốn đảng chính, không để tình trạng hỗn lọan này tiếp diễn. Tuy nhiên ông Thảo chỉ thành lập được Hội đồng Nhân sĩ là hết mức, không làm được nhiệm vụ thứ hai.
Vì chính phủ trung ương không có phương hướng và mục đích nên tình hình trở nên càng ngày càng tệ hại. Ở nông thôn cộng sản mỗi ngày mỗi lấn tới trong khi chỉ có 6% lực lượng quân đội tích cực tham gia những hoạt động an ninh.
Tình hình đòi hỏi một thủ lĩnh mạnh và cương quyết và tướng Nguyễn Khánh, lúc này là tư lệnh Quân Đoàn I, có vẻ như đáp ứng được điều này!
Ngày 30.1.64, với sự hỗ trợ của Nguyễn Chánh Thi, Đỗ Mậu và Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh tổ chức chỉnh lý, đưa toàn bộ những tướng "cách mạng" như Đôn, Xuân, Kim, Đính và tướng Vỹ mới ở Pháp về lên quản thúc ở Đà Lạt. Riêng Minh lớn vẫn ở lại Sài Gòn với danh vị quốc trưởng bù nhìn trong khi Nguyễn Khánh thao túng với chức thủ tướng.
 Ngôi sao Nguyễn Khánh
 Trong giới tướng lãnh thời ấy, Nguyễn Khánh được xem như con sói già cô đơn: nguy hiểm, táo bạo, nhưng đơn độc. Ông Khánh được xem là có khả năng quân sự nhưng vụng về ở mặt chính trị. Khánh còn khác người ở bộ râu dê củn cởn ở chóp cằm trông giống mấy vai gian trong tuồng hát bội. Người ta kể rằng ông Khánh từng tuyên bố: khi đã bắt tay vào việc gì rồi thì sẽ để yên, không bao giờ làm rụng một sợi râu cho đến khi hoàn tất công việc.
Nguyễn Khánh sinh năm 1927 trong một gia đình điền chủ ở Trà Vinh. Thuở nhỏ ông sống và đi học bên Miên, sau chuyển về Sài Gòn. Mẹ ông có một quán rượu ở Đà Lạt nhưng ông lại thì sống cùng cha và bà kế mẫu là đào cải lương Phùng Há.
Khi còn ở tuổi thiếu niên ông từng hai lần bỏ vô bưng tham gia Việt Minh và lần nào cũng thất vọng bỏ về. Về thành, Khánh lại gia nhập quân đội Pháp để chống lại Việt Minh và đến năm 1952 thì đã là một sĩ quan xuất sắc trong lực lượng Pháp tại miền cao nguyên Trung Phần. Sau hiệp định Geneva, Khánh tích cực ủng hộ ông Diệm và trở thành Tham Mưu Phó của quân đội Việt Nam.
Năm 1960 ông đã phá tan cuộc đảo chính của Vương Văn Đông - Nguyễn Chánh Thi bằng cách vờ vịt thương thuyết để những lực lượng trung thành từ xa có đủ thì giờ tiến về Sài Gòn giải cứu. Năm 1961, vì sự xích mích với Ngô Đình Nhu, Khánh bị thuyên chuyển về làm tư lệnh vùng II và âm thầm mưu tính việc lật Diệm nhưng không kịp.
Tháng 12 năm 1963, sau cuộc đảo chính của Minh lớn một tháng, Khánh xin thuyên chuyển về vùng IV để trổ tài cầm quân vì đó là nơi cộng sản đang lộng hành. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lại nghi ngờ nên điều Khánh làm tư lệnh vùng I: đưa con sói già đơn độc ra đó, mấy ông tướng cách mạng yên tâm hơn nhiều. Đúng lúc này, Đỗ Mậu lại tìm đến với ông.
Là Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội dưới thời Ngô Đình Diệm, đại tá Đỗ Mậu nắm rõ lý lịch và hành tung của từng viên tướng. Chính sự hiểu biết này đã giúp ông ta lôi kéo những vị tướng bất mãn lại thành một khối trong cuộc đảo chính tháng 11.1963. Tuy nhiên sự am tường này lại khiến các tướng cảm thấy không yên tâm với họ Đỗ. Sau khi thưởng cho Mậu lon thiếu tướng thì họ bàn kế vô hiệu hóa và cô lập hóa. Không ai muốn dây với một con người tuy có dáng vẻ lừ đừ bên ngoài nhưng rất tráo trở và giảo hoạt như Mậu.
Đúng lúc này, tướng lưu vong Nguyễn Chánh Thi -- cựu tư lệnh nhảy dù -- vừa từ Miên trở về. Đỗ Mậu lập luận với HĐQNCM rằng trong cuộc đảo chính 1960 Thi đã bị Khánh dùng mưu lừa nên vẫn còn căm hận, và do đó cách hay nhất là sử dụng Nguyễn Chánh Thi để kiểm soát Nguyễn Khánh. Thế là Nguyễn Chánh Thi được cử làm tư lệnh phó vùng I, dưới quyền Nguyễn Khánh.
Thực chất, bên trong lại là mưu sâu của Đỗ Mậu: dùng Nguyễn Chánh Thi làm cầu nối để giao hảo với Nguyễn Khánh: trong tình thế mới, Nguyễn Chánh Thi sẽ quên thù xưa mà hướng đến tương lai.
Đỗ Mậu lại đi đêm với Trần Thiện Khiêm, người đã từng cộng tác chặt chẽ với mình trong cuộc đảo chính trước kia và mới bị thuyên chuyển từ vai trò Tham Mưu Trưởng xuống Tư Lệnh Phó Vùng III. Việc hạ chức này lại khiến ông Khiêm trở nên sáng giá khi nắm trong tay hai sư đoàn 5 và 7 đóng ở sát nách Sài Gòn.
Ngoài ra, Mậu còn lôi kéo tướng Dương Văn Lân, tư lệnh Bảo An. Đây là điều không có gì khó vì Lân đang bị HĐQNCM điều tra vì tội tham nhũng.
Đúng lúc này thì HĐQNCM lại làm một việc vụng về theo một đề nghị thiếu suy xét của Trần Văn Đôn. Giữa lúc tổng thống Pháp de Gaulle lăng xăng phá Mỹ bằng chủ thuyết "Trung lập hoá Đông Dương" thì HĐQNCM lại ngây ngô mời một số tướng tá quan đang lưu vong bên Pháp về để "đóng góp vào công cuộc chống Cộng". Trong số này có cựu trung tá Trần Đình Lan, một gián điệp khét tiếng của Phòng Nhì Pháp, được bố trí cư ngụ tại nhà tướng Lê Văn Kim, em rể của Trần Văn Đôn.
Với sự hỗ trợ của tướng Dương Văn Đức, Mậu đã ngụy tạo hồ sơ để tố giác rằng những tướng lãnh trong HĐQNCM đã bị gián điệp Pháp mua chuộc và nhiều quan chức Mỹ cũng mắc bẫy nầy. Suốt hai tuần đầu của tháng 1.1964, đã có những cuộc gặp gỡ thường xuyên giữa Nguyễn Khánh và những viên chức Mỹ tại Huế về việc này.
Ngày 25.1.1964, Nguyễn Khánh vào Sài Gòn bàn bạc kế hoạch với những nhân vật đồng hội rồi trở về Huế. Ba ngày sau, 28.1.1964, Nguyễn Khánh thầm lặng sử dụng phương tiện dân sự bay vào Sài Gòn trong y phục dân sự để tiến hành “Chỉnh lý”.
Tối 29.1.1964 các đơn vị ra tay, bắt giữ các tướng lãnh hàng đầu trong HĐQNCM như Đôn, Kim, Xuân, Đính với tội danh bị Pháp mua chuộc và hòan tòan không gặp bất cứ sự kháng cự nào. Thoạt tiên, những bại tướng này bị giải ra Đà Nẵng rồi sau đó đưa vào quản thúc tại Đà Lạt. Riêng Dương Văn Minh thì  được Nguyễn Khánh "mời" ở lại Sài Gòn để làm quốc trưởng bù nhìn.
 Quyền lực
 Sau cuộc “Chỉnh lý” Nguyễn Khánh đã là chủ tịch HĐQNCM, và HĐ này được mở rộng với 17 tướng và 32 sĩ quan cao cấp.
Nguyễn Khánh còn giao cho Nguyễn Tôn Hoàn -- một đảng viên Đại Việt theo Công Giáo mới trở về từ Pháp -- thành lập nội các. Thấy Nguyễn Tôn Hoàn lúng túng, không thành công theo yêu cầu của mình, Nguyễn Khánh bèn tiện thể tự giao cho mình chức thủ tướng.
Dưới Nguyễn Khánh có Nguyễn Tôn Hoàn là đệ nhất phó thủ tướng, đặc trách bình định; Nguyễn Xuân Oánh nắm đệ nhị phó thủ tướng đặc trách kinh tài và Đỗ Mậu đặc trách văn hoá xã hội.
Tháng 3 năm 1964, khi McNamara sang thăm Việt Nam, ông đã được tổng thống Johnson chỉ thị là phải chứng tỏ Mỹ ủng hộ Nguyễn Khánh bằng "hàng ngàn bức hình chụp chung", điều mà sau này McNamara ghi lại trong hồi kỳ là "nỗi bực bội khôn nguôi"!
Nguyễn Khánh hứa hẹn sẽ tổ chức bầu cử quốc hội trong vòng một năm nhưng ngay sau đó lại nóng nảy giải tán "Hội Đồng Nhân Sĩ" -- được Dương Văn Minh lập nên từ trước.
Đồng thời Nguyễn Khánh cũng đề ra chương trình "Quốc Gia Sinh Tồn" với chủ trương giải tán Lực Lượng Bảo An (Civil Guard), để sáp nhập một phần vào quân đội chính quy, một phần chuyển về lực lượng tự vệ nông thôn là "Thanh Niên Chiến Đấu". Tuy nhiên, một thời gian sau ông lại cải tổ lực lượng này thành những đơn vị "Nghĩa Quân".
Về an ninh, trong 43 tỉnh thời bấy giờ đã có 21 tỉnh được xếp hạng nghiêm trọng (critical) và 14 tỉnh cực kỳ nghiêm trọng (super-critical). Nguyễn Khánh chủ trương triệt thoái ra khỏi những khu vực an ninh tồi tệ, không thể bảo vệ. Thế nhưng điều này đã tạo cơ hội cho cộng sản về cả tâm lý cũng như quân sự: sau khi làm chủ những vùng nông thôn rộng lớn, họ thỉnh thoảng đột kích vào vùng đô thị để gây tiếng vang.
 Bất lực – phải ra đi
 Trong lúc đó thì vùng thị thành cũng không yên. Trên đường phố thì các tổ chức Phật Giáo biểu tình đòi tiêu diệt "dư đảng Cần Lao" trong khi người Công giáo thì cũng không thua, ào ào xuống đường phản biểu tình. Dần dà, các tổ chức sinh viên học sinh cũng vào cuộc, nhiều khi với sự giật dây của cộng sản hay của những chính khách Đại Việt đang toan tính đảo chính.
Có lúc Sài Gòn hầu như lâm vào tình trạng vô chính phủ với đỉnh cao vào tháng 8.1964, Nguyễn Khánh lại "hờn dỗi" bỏ lên Đà Lạt để "suy nghĩ", giao quyền lại cho phó thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh.
Điều này thể hiện chỗ yếu của ông ta. Theo bình luận thì trong người Nguyễn Khánh có sự pha trộn phức tạp giữa sự táo tợn mang tính võ biền ở bề ngoài và sự thiếu quyết đoán của nhà lãnh đạo chính trị. Ông ta không có khả năng đưa ra những quyết định dứt khoát, đúng nơi và đúng lúc. Đến khi này các tướng trẻ ngoi lên và tình hình càng thêm phức tạp và ông càng trở nên bất lực hơn.
Nhóm các “Tướng Trẻ” là các tướng Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Bảo Trị, Lê Nguyên Khang, Cao Văn Viên và Chung Tấn Cang.
Ngày 13.9.1964, Lâm Văn Phát, Dương Văn Đức và Huỳnh Văn Tồn tiến hành đảo chính theo sự xúi giục của Nguyễn Tôn Hoàn, kẻ đã bất mãn vì không "lên" được thủ tướng.
Lập tức các tướng trẻ tổ chức phản đảo chánh với sự yểm trợ của không quân do Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy: Kỳ cho máy bay quần trên đầu phe đảo chính doạ sẽ ném bom và thế là quân đảo chính phát rét, phải rút lui.
Nguyễn Khánh thoát nạn và nhớ đó thế giá của Nguyễn Cao Kỳ cùng các tướng trẻ lên cao vùn vụt.
Cũng lúc này, vì sức ép của Mỹ, Nguyễn Khánh tuyên bố thành lập Thượng Hội Đồng Quốc Gia bao gồm những chính khách dân sự cao niên. Ngày 29.10.1965 hội đồng bầu Phan Khắc Sữu làm quốc trưởng.
Sợ rằng Nguyễn Khánh không kiềm chế nổi mấy ông tướng trẻ nên Đại sứ Maxell Taylor nhờ tướng Westmorland đứng ra mời họ đến tư thất của mình dự tiệc. Trước mặt Westmoreland và phó đại sứ Alex Johnson, Taylor dằn giọng với các tướng rằng người Mỹ không muốn thấy những cảnh tượng lộn xộn nữa.
Trong khi đó, để rộng con đường tiến thân, các tướng trẻ gây áp lực buộc Nguyễn Khánh phải thông qua sắc luật mới, quy định rằng tướng lãnh đã trải qua 25 năm ở quân đội phải giải ngũ. Với ý đồ này họ muốn loại trừ những tướng già hơn như Minh, Đôn hay Kim chẳng hạn.
Thế nhưng quốc trưởng Phan Khắc Sửu nhất định không chịu ký duyệt. Thấy vậy, ngày 20.12.1964  các tướng tức giận lật đổ Phan Khắc Sửu, giải tán Thượng Hội Đồng và bắt các thành viên đưa lên Pleiku tống giam.
Đại sứ Maxell Taylor lại nổi trận lôi đình. Ông cho “mời” bốn tướng trẻ thuộc Hội Đồng Tướng Lãnh gồm Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Thiệu và Chung Tấn Cang đến để trút cơn thịnh nộ lớn. Taylor nói như mắng: "Tối hôm ấy ở nhà Westmorland tôi đã nói rõ ràng rồi, các anh có hiểu tiếng Anh không?". Khi Nguyễn Cao Kỳ trả lời rằng đủ để hiểu; Taylor nói tiếp: "Như thế bữa tiệc ở nhà tướng Westmoreland tối hôm ấy thật là phí quá!".
Các tướng trẻ lấy làm tức giận và biết vậy, Nguyễn Khánh lại đánh bài tháu cáy: biến mối nhục của các tướng trẻ thành mối sĩ nhục quốc gia để tìm kiếm sự hậu thuẫn chính trị. Ông tố cáo trước báo chí Mỹ là đại sứ Maxell Taylor đã xen vào chuyện nội bộ của Việt Nam. Ông nói rằng ông ta và các chiến hữu chỉ đấu tranh cho tự do của dân tộc và chỉ phụng sự tổ quốc của mình chứ không phụng sự ý thích của ngoại bang. Và ông ta kết luận rằng khi làm như thế ông Taylor đã không “phục vụ tốt quyền lợi của nước Mỹ” và chính phủ Mỹ cần triệu hồi Taylor về nước ngay lập tức.
Tuy nhiên, chính phủ Mỹ cứng rắn: nếu Taylor phải về nước thì Mỹ sẽ ngưng viện trợ. Ván bài tháu cáy của Nguyễn Khánh đi vào ngõ cụt, báo hiệu cho sự đi xuống của ông ta.
Lỡ phóng lao, Nguyễn Khánh lại chơi tiếp một canh bạc liều hơn: đi dây với "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng". Ông bí mật liên lạc Mặt Trận và ra lệnh phóng thích vợ của Huỳnh Tấn Phát, phó chủ tịch Mặt Trận, để chứng tỏ thiện chí.
Dĩ nhiên điều này không qua mặt được con mắt cú vọ của người Mỹ.
Ngày 27.1.1965 Hội Đồng Tướng Lãnh tổ chức lật đổ nội các Trần Văn Hương và yêu cầu Nguyễn Khánh đứng ra thành lập nội các mới; đại sứ Maxell Taylor liền phản đối, cho rằng chính phủ Mỹ "không thể làm việc" với Nguyễn Khánh.
Chưa đầy một tháng sau, ngày 19.2 đại tá Phạm Ngọc Thảo và Lâm Văn Phát đem quân từ miền Tây kéo về Sài Gòn đảo chính, họ chiếm nhiều mục tiêu và bao vây nhà Nguyễn Khánh, tuy nhiên Kỳ đã giúp Khánh trốn ra Vũng Tàu bằng phi cơ. Sau đó, các tướng trẻ lại đem quân hành phản đảo chính với sự yểm trợ của không quân do Kỳ làm tư lệnh. Phe Thảo-Phát bị tan rã.
Ngay hôm sau, 20.2.1965, Hội Đồng Tướng Lãnh bỏ phiếu bất tín nhiệm Nguyễn Khánh. Để đối phó, ông dùng máy bay riêng đi các quân khu để vận động vây cánh, tuy nhiên tới Đà Lạt thì máy bay hết xăng phải ngừng lại ở phi trường. Đúng lúc này, tướng Westmoreland cử người đến gặp ông khuyên nên rút lui để tránh xáo trộn tình hình và hứa hẹn sẽ bảo đảm an ninh.
Để giữ thể diện, Khánh được phong làm đại sứ lưu động và lên đường nhận nhiệm sở một cách rình rang.
Nguyễn Khánh đi rồi thì chỉ còn tướng trẻ với nhau. Các tướng bèn hội họp và thành lập hai cơ cấu lãnh đạo: một là "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia" do Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch, một là "Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương" do Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch.
Sự kiện này lại mở ra một bước ngoặt khác cho trang sử của Việt Nam Cộng Hòa.
 Trần Đại Hải
 
Tham khảo:
Trần Văn Đôn, (1978). Our Endless War. California: Pressidio Press. Trang 133-134. [1]