Thursday, September 29, 2011

Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh

Người Chết Ở Giờ Thứ 25
::: Đông Phương  :::

Từ xưa tới nay, khi nói về một chiến công, khi ca tụng một anh hùng, người ta thường có thói quen nhắc nhở đến những vị tướng tá trong quân đội hoặc những người có tiếng tăm trong xã hội mà nhiều người biết đến, chứ ít ai nhắc nhở hay đi tìm hiểu những hành động anh hùng của những con người, mà tên tuổi của họ còn xa lạ với mọi người… mà thực ra, nếu chúng ta đem những hành động dũng cảm của họ ra so sánh, chưa hẳn ai đã hơn ai. Tôi cho đây là một sự thiếu sót lớn lao của những người cầm bút, của những nhà viết sử trong thời gian qua.
Nếu viết về những hành động dũng cảm, gương hy sinh của những chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QL/VNCH) suốt 20 năm cầm súng chiến đấu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của bọn Cộng Sản phương Bắc, thì không phải chỉ có những sự hy sinh của cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Trung Tá Phạm Phú Quốc… mà theo tôi, sự hy sinh của những vị tướng, tá trên đây cũng không khác gì những hành động và sự hy sinh đầy quả cảm của trên nửa triệu chiến sĩ QL/VNCH khác đã nằm xuống trên khắp chiến trường từ miền Nam ra đến miền địa đầu giới tuyến trong suốt 20 năm chiến đấu chống giặc vừa qua.
Cũng như tất cả mọi người, tôi khâm phục những hành động gan dạ, dũng cảm và ca tụng những chiến công hiển hách của những anh hùng đó, dù biết trước khi bước vào cuộc chiến sẽ gặp biết bao hiểm nguy, có thể hy sinh tính mạng. Thế nhưng, họ vẫn hăng hái vào cuộc, chấp nhận những rủi may và thua thiệt cho mình không ngoài mục đích cao cả: Ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản, bảo vệ sự Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do cho toàn dân.
Chiến tranh là những bất trắc, hiểm nguy luôn luôn rình rập vây quanh. Người chiến sĩ đã chấp nhận vào cuộc là đã chấp nhận đoạn kết của những sự rủi may xảy đến cho bản thân mình bất cứ lúc nào. Hành động lao lên phía trước trong lưới đạn của quân thù của người binh nhì bộ binh cũng có giá trị tương đương như hành động phác họa kế hoạch hành quân và thị sát mặt trận để chỉ huy của một ông tướng. Hai nhiệm vụ tuy khác nhau, nhưng đều có chung một mục đích: tìm và diệt quân thù!. Quân đội rất cần những cấp chỉ huy giỏi và cũng không thể thiếu những anh chiến sĩ gan dạ, kiên cường.
Nhân tưởng niệm 30 năm mất nước 1975-2005, tôi xin được kể về cái chết của một người lính chiến, một cái chết hào hùng ở vào giờ thứ 25…

***
Là người quân nhân, trong cuộc đời lính chiến của mình, ai không một lần được chứng kiến những chiến công hiển hách của đơn vị hoặc một sự hy sinh anh dũng của đồng đội mình. Bởi vậy, suốt hơn 5 năm sống trong quân ngũ, tôi đã được chứng kiến khá nhiều gương hy sinh của cấp chỉ huy, bạn bè và những thuộc cấp của mình. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu sắc nhất vẫn mãi mãi in đậm trong tâm hồn tôi cho đến bây giờ, chính là cái chết của Thượng Sĩ Ánh, người trung đội trưởng trẻ tuổi và tài năng của Đại Đội tôi…
Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, 21 tuổi, Trung Đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 15, Sư Đoàn 9 Bộ Binh có lẽ là một Thượng Sĩ trẻ nhất của QL/VNCH.
Gặp và biết được Ánh, khi tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 3/15, và được Tiểu Đoàn đưa xuống làm đại đội trưởng Đại Đội 4, thay thế cho vị ĐĐT tiền nhiệm vừa thuyên chuyển nhận công tác khác.
Cũng như các đơn vị trưởng khác, trước khi tiếp xúc với anh em binh sĩ trong đại đội, tôi cho mời tất cả các cấp chỉ huy từ Tiểu Đội trưởng trở lên, để làm quen và tìm hiểu tâm tình của anh em binh sĩ trong đại đội. Ấn tượng in đậm trong tâm hồn tôi mạnh nhất là hình ảnh một anh lính rất sữa: nhỏ con, dáng dấp trắng trẻo như một thư sinh, rụt rè, bẽn lẽn khi phải tự giới thiệu về mình: E…m, em Trung Sĩ Nhất Nguyễn Ngọc Ánh, số quân…
Trong lúc cậu ta đang tự giới thiệu về mình, Thiếu Úy Quang (ĐĐ phó) nói nhỏ vào tai tôi:
- Nó thì lúc nào cũng như con gái vậy, nhưng trung úy coi chừng lầm chết… mỗi lần đụng địch là tự nhiên nó lì lợm và dữ như cọp vậy.
Từ ấn tượng ban đầu tốt đẹp đó, dần dần tình cảm tôi dành cho Ánh không còn đơn thuần là tình cảm của một cấp chỉ huy đối với một thuộc cấp, mà tôi coi nó như một người em ruột của mình. Ngược lại, Ánh cũng rất qúi trọng và không hề giấu diếm tôi điều gì về cuộc đời và gia đình Ánh:
- Trung úy biết không?…
Tôi ngắt ngang:
- Lại Trung úy, em quên những điều anh dặn rồi à?
- Dạ, em nhớ, nhưng tại em quen miệng… Thưa anh, ba em bị Việt Cộng giết chết (vì ông là Phó Xã trưởng An Ninh) lúc em mới 16 tuổi, mỗi lần nghĩ đến cái chết của ổng là em không sao học được nữa. Anh biết không, bọn nó tàn ác lắm, nó đập đầu ổng chết rồi còn tàn nhẫn moi óc ra ngoài… Sau khi chôn cất ba em xong, em đã tình nguyện nhập ngũ 3 lần, nhưng không ai nhận em cả vì họ cho rằng em còn quá nhỏ, và họ khuyên em lên về nhà tiếp tục đi học. Đằng đẳng 2 năm, nói là đi học chứ thật ra đầu óc em lúc nào cũng chỉ ẩn hiện những hình ảnh về cái chết thương tâm của người cha, và những căm thù món nợ máu phải trả cho ông già. 18 tuổi, em tình nguyện ngay vào sư đoàn 9, và được cho đi học khóa Hạ Sĩ Quan tại TTHL/Đồng Đế Nha Trang. Ra trường em may mắn được đổi về Tiểu đoàn này cho đến ngày nay…
Ánh không kể về những chiến công của mình, về sự gan dạ và cái lon Trung Sĩ Nhất đặc cách được gắn tại mặt trận của mình, chỉ sau một năm có mặt tại đơn vị. Càng gần gũi Ánh, càng chứng kiến sự gan dạ, khôn ngoan và tài lãnh đạo chỉ huy của Ánh, tôi càng khâm phục và thương nó nhiều hơn. Có nhiều lúc, chứng kiến những hành động quá hăng say của Ánh trong chiến đấu, tôi đã phải kêu máy dzũa cậu ta một cách thậm tệ. Cũng vì cậu ta vì quá hăng say chiến đấu, đôi lúc đã quên mình là cấp chỉ huy, lao lên tuyến đầu làm nhiệm vụ của một người lính khinh binh. Bất luận lúc nào, khi nghe tiếng súng nổ là cậu ta như con hổ dữ lao lên phía trước với hai trái lựu đạn trong tay, nhào vào những dãy hố phòng thủ của địch, mặc cho lưới đạn đan kín tứ bề. Chỉ tội cho cậu hiệu thính viên, vừa phải khó nhọc bám theo Ánh truyền và nhận lệnh, vừa phải nghe những lời la hét giận dữ của tôi… và lần nào cũng như lần ấy, điệp khúc: Xin Alfa thông cảm, em thấy mục tiêu ngon quá, phải tấn công nhanh mới kịp…
Có một điều khá lạ lùng là, như có một phép mầu nào đó che chở: chẳng có một viên đạn nào thèm đụng đến cậu ta. Và một lần nữa, TSI Nguyễn Ngọc Ánh nhận cấp Thượng Sĩ đặc cách tại mặt trận sau một trận đánh giải tỏa tỉnh lộ từ quận Cai Lậy (Định Tường) vào tỉnh Kiến Tường, với thành tích: Tiêu diệt trọn vẹn một trung đội súng nặng của Việt Cộng. Tịch thu hàng chục cây súng, trong đó có 1 súng cối 82 ly, 1 Đại liên 12 ly 8, 2 B.40… trong lúc cậu ta vừa tròn 21 tuổi.
Khi tiếng súng đã im bặt, Ánh lại trở về thế giới rụt rè, e lệ cố hữu. Nếu ai chưa từng chứng kiến những hành động gan dạ và dũng cảm của Ánh ngoài mặt trận, khó có ai lại tin được rằng cậu bé với dáng dấp thư sinh đó, lại là một cấp chỉ huy khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại đáng kể cho bọn Cộng Sản xâm lăng…
Nếu tất cả chỉ muốn viết những hành động gan lỳ, những chiến công và tài lãnh đạo của một HSQ trẻ của quân đội, và nếu cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn, ngày quốc hận 30/4/75 không xảy đến cho dân tộc Việt Nam thì tôi không viết bài này. Bởi, tôi không thích ca tụng người còn sống, kinh nghiệm đã cho ta thấy: có biết bao nhiêu những vị tướng, tá… khi còn quyền thế trong tay thì tha hồ khua môi, múa mỏ. Đến lúc quốc biến thì co vòi, rút cổ, cao bay xa chạy bỏ mặc bạn bè, thuộc hạ sống chết mặc bay… Trong tù thì xum xoe, bợ đỡ nịnh hót kẻ thù, qua được nước thứ ba thì lại bắt đầu giở thói kẻ trên người trước…
Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, tuổi đời còn quá trẻ và cấp bậc thì quá nhỏ nhoi trong quân đội. Thế nhưng, anh có đủ tư cách, phẩm chất của một người lính chân chính. Hành động của anh thật xứng đáng là hành động của một anh hùng: Anh đã dùng súng tự kết liễu đời mình, sau khi nhận được lệnh tùy nghi của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, do tôi ban lại. Anh đã hành xử đúng phẩm cách của một cấp chỉ huy: thà tự xử mình, chứ không để kẻ thù xử mình.
Tiếng súng đã nổ lúc 10 giờ 25 phút, ngày 1/5/1975 tại phi trường Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường của cố Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh đã để lại ấn tượng không phai trong tâm hồn tôi, và là bài học nhắc tôi luôn nhớ: là chiến sĩ QL/VNCH, tôi phải luôn luôn sống xứng đáng với tâm niệm Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.


Đông Phương
(Tưởng niệm 30 năm mất nước)

Nguồn : Bảo Vệ Cờ Vàng

Tuesday, September 27, 2011

Ðồng hương Kiên Giang giỗ anh hùng Nguyễn Trung Trực
Sunday, September 25, 2011 6:19:45 PM
Bookmark and Share



Nguyên Huy/Người Việt



WESTMINSTER (NV) - Trưa hôm Chủ Nhật, 25 tháng 9, đồng hương Kiên Giang đã tổ chức linh đình lễ giỗ vị anh hùng của dân tộc Nguyễn Trung Trực tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt và sau đó buổi lễ đã trở thành một ngày hội vui họp mặt của khoảng 500 đồng hương đến tham dự.
Nghi lễ rước bàn thờ chuẩn bị làm lễ giỗ anh hùng Nguyễn Trung Trực. (Hình: Dan Huynh/Người Việt)

Buổi lễ được bắt đầu bằng cuộc rước kiệu anh linh với bức tượng bán thân của anh hùng Nguyễn Trung Trực, được toàn thể đồng hương rước từ ngoài vào hội trường và đặt trên bàn thờ dưới di ảnh của ngài.

Trước khi cử hành buổi lễ, ông Lê Minh Triều, hội trưởng Hội Ái Hữu Ðồng Hương Kiên Giang, nhắc lại tiểu sử vị anh hùng của dân tộc mà hết thẩy người dân Kiên Giang đã coi như vị thần linh của con dân.

Ông nói: “Hôm nay chúng ta có mặt đông đủ nơi đây để làm lễ giỗ lần thứ 143 anh hùng Nguyễn Trung Trực để chứng tỏ lòng tri ân sâu xa của con dân Kiên Giang với ngài.”

Tiếp đó, ông nhắc lại những chiến công hiển hách của ngài mà trận đánh đốt phá tan chiếc pháo hạm tân tiến “Esperance” của Pháp tại Vàm Nhật Tảo, trận công đồn Rạch Giá giết được 5 tên võ quan Pháp, trận tấn công vào châu thành Rạch Giá làm chủ tình hình được 5 ngày, khiến quân Pháp phải dùng tổng lực của mình để đối phó với nghĩa quân.
Ba con lân vái trước bàn thờ đầy thức ăn do đồng hương Kiên Giang đóng góp. (Hình: Dan Huynh/Người Việt)

Cuộc kháng chiến của Nguyễn Trung Trực cùng dân binh khắp các tỉnh Rạch Giá, Tân An, Gia Ðịnh quật cường đến độ quân Pháp phải dùng quỉ kế bắt thân mẫu của ngài cùng bà con thân tín trong vùng để làm con tin buộc ngài phải đầu hàng nếu không sẽ tàn sát hết. Trước thế cô, lương thực cạn và vì muốn cứu sinh linh hàng trăm người vô tội đang bị Pháp bắt làm con tin, ngài phải giải tán nghĩa quân và tự ra nạp mình cho giặc. Sau đó, vào ngày 28 tháng 8 năm Tân Mão, ngài bị Pháp lên án tử hình và hành quyết tại trước nhà bưu điện Rạch Giá.

Vẫn theo lời ông hội trưởng, sau đó người dân vùng Kiên Giang Rạch Giá cùng nhiều nơi khác đã lập đền thờ ngài mà ngày nay tại châu thành Rạch Giá còn ngôi đền thờ được dân chúng nhang khói tu bổ rất trang nghiêm.
Nữ đồng hương Kiên Giang cùng góp tay sửa soạn cỗ cho mọi người “thừa huệ” sau lễ giỗ anh hùng Nguyễn Trung Trực. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Bài diễn văn của ông hội trưởng cũng còn nhắc đến một vị phó tướng của Nguyễn Trung Trực là Lâm Quang Ky, có được đặt bài vị trên bàn thờ, mà trong buổi lễ hôm nay cũng có mặt các cháu chắt của ngài.

Tiếp đó, ông Tạ Duy Luân, trưởng ban tổ chức, phát biểu rằng: “Mỗi năm đồng hương Kiên Giang có ba cuộc họp mặt chính là vào dịp hè, lễ giỗ anh hùng Nguyễn Trung Trực và Tất niên hay Tân niên. Buổi lễ giỗ năm nào, đồng hương Kiên Giang cũng đến tham dự rất đông như để nhắc nhở cho con cháu về một anh hùng của dân tộc đã không quản thế cô sức yếu, vẫn quyết gìn giữ đất nước của ông cha để lại trước sự xâm lăng của quân Pháp.”

“Ðiều rất đáng ghi nhận là buổi lễ giỗ đã được rất nhiều đồng hương đóng góp không chỉ công sức mà cả tài vật cùng ban tổ chức. Ðiều đó khiến ban tổ chức chúng tôi rất lấy làm vui vì nó chứng tỏ được lòng thành kính biết ơn sâu xa đến tổ tiên hết lòng vì dân vì nước. Nên tôi nghĩ gương sáng của anh hùng Nguyễn Trung Trực sẽ soi sáng cho con dân Kiên Giang đặc biệt là cho những thế hệ Kiên Giang tiếp nối noi theo,” ông Luân nói thêm.

Theo lời ông trưởng ban tổ chức, khi bước vào hậu trường sân khấu thì thấy lời ông nói là đúng. Phòng hậu trường đông chật các bà các cô vừa gái Kiên Giang vừa dâu Rạch Giá tíu tít sửa soạn các phần ăn sau buổi lễ. Trong khi đó, ở bên ngoài, xe tư nhân tới tấp đưa thực phẩm đến. Bánh trái, xôi chè, nước uống la liệt.

Chủ nhân Kiên Giang Bakery, mang hàng chục hộp bánh lớn nhỏ đến, vui vẻ cho biết: “Hội thành lập được ba năm tôi mới biết mà gia nhập hội. Từ đó đến nay, không có buổi họp mặt nào của hội mà chúng tôi không tham dự, đóng góp. Ðây là một niềm vui của chúng tôi cũng như của bà con Kiên Giang nên nhà báo thấy đó, thực phẩm do bà con đóng góp cho buổi lễ giỗ này không còn nơi chứa nữa.”

Trở lại ngoài hội trường, nơi cử hành lễ giỗ. Các vị niên trưởng trong hội xúng xính trong những lễ phục cổ truyền Việt Nam tiến hành các nghi thức của lễ an vị thần, tế lễ dâng hương, tẩy trần, tiến tửu... trong tiếng chiêng trống đổ hồi rộn rã.

Lễ tất, mọi người được ban tổ chức mời những phần ăn được ban tổ chức mang đến tận chỗ trong khi trên sân khấu các tiết mục văn nghệ cây nhà lá vườn được trình diễn. Vào lúc này, nhiều người không có chỗ trong hội trường đã quần tụ ngay hành lang trước cửa và phía sau của nhật báo Người Việt để cùng nhau ăn chung một mâm cỗ lớn, nói cười rổn rảng, huyên náo, như trong một ngày hội vui tại quê nhà vào những năm thanh bình.

Lớp lớn tuổi thì hỏi nhau những cơ cực đời sống ngày mới qua, nay thì ai nấy đều ổn định được cuộc sống, con cái thành thân, tốt nghiệp được bậc đại học. Một vài người được nhắc đến vì những thành công trên thương trường tại thủ đô của người Việt tị nạn. Giới trẻ cũng náo nhiệt làm quen nhau, lắng nghe những câu chuyện mà một vài bạn trẻ trong nhóm kể về quê hương... xa lạ của mình.

–––

Liên lạc tác giả: NguyenHuy@nguoi-viet.com


Từ Đó Em Buồn


Tác giả : Trần Thiện Thanh
Trình bày : Hoàng Nhật Thơ

Sunday, September 25, 2011

Em Chờ Anh ...


Em chờ anh ... từ một chiều đưa tiễn,
Khoác chiến bào ... anh gìn giữ quê hương,
Em nâng niu gói trọn vẹn niềm thương,
Trong trang sách ... sân trường buồn im lắng.

Em chờ anh đã bao mùa mưa nắng,
Sông Kiên buồn lờ lững tháng ngày trôi,
Chiến chinh dài ... hai đứa mãi ngăn đôi,
Trời tháng hạ sao bờ môi lạnh giá.

Em chờ anh bao mùa thu đổ lá,
Nhặt lá vàng ... em vẽ trái tim yêu,
Viết tên anh với thương nhớ thật nhiều,
Gởi cơn gió bao chiều ... trời buông nắng.

Em chờ anh ... trinh nguyên tà áo trắng,
Nụ hương tình cánh phượng vỹ ngày xưa,
Tháng ngày trôi trong nỗi nhớ đong đưa,
Nói sao hết cho vừa bao thương nhớ.

Em chờ anh từ những ngày nghiệt ngã,
Tháng tư buồn tang tóc cả quê hương,
Tóc dần phai theo vạt nắng cuối đường,
Nhưng nào thấy bóng người thương trở lại.

Em chờ anh trong cõi lòng tê tái,
Hoàng hôn buồn sầu tím cuối trời xa,
Em lắng im cho mi mắt nhạt nhòa,
Hoàng hôn đến bao lần trong ngấn lệ.

Em chờ anh đã ba mươi năm lẻ,
Phố Kiên buồn ... sầu dâng mắt đong đưa,
Mỗi con đường kỷ niệm những ngày xưa,
Em đếm bước ... từng cơn mưa buốt giá.

Em chờ anh trong mỏi mòn hơi thở,
Anh nơi nào từ gãy súng tang thương,
Em chờ anh trên lối ngõ yêu đương,
Dù là nắm xương tàn ... Anh trở lại !

Sept 25, 2011
Hoàng Nhật Thơ


Saturday, September 24, 2011

Ta Chờ Em ...


Ta chờ em bao lần thu thay lá,
Đếm tháng ngày trên những nhánh tàn phai,
Lối thu xưa ... chừ thiếu một gót hài,
Từng vạt nắng trải dài bao nỗi nhớ.

Ta chờ em trong mưa buồn hiu hắt,
Từng giọt sầu tí tách vọng buồn tênh,
Đêm từng đêm trong bóng tối mông mênh,
Ta thầm đợi một bóng hình dĩ vãng.

Ta chờ em trong chuỗi ngày quên lãng,
Một sớm nào chợt thấy tóc điểm sương,
Tuổi đời trôi ngày tháng bụi mờ gương,
Hay thương nhớ buồn vương phai sợi tóc.

Ta chờ em ... trăng đầy rồi lại khuyết,
Đã bao mùa ... trăng nghiêng mảnh chơ vơ,
Hồn của ta ... một nửa mảnh thẫn thờ,
Nửa còn lại lửng lơ ngày tháng cũ.

Ta chờ em ... tuổi xanh rong rêu phủ,
Mực tím buồn, trang lưu bút mờ phai,
Bao nhiêu năm ký ức đọng u hoài,
Trường nghiêng nắng, vai kề vai ... dĩ vãng.

Ta chờ em ... mây u sầu giăng kín,
Không gian buồn chẳng giọt nắng chiều rơi,
Hoàng hôn buông nhẹ khép cuối chân trời,
Ta im lắng nghe rã rời hoang phế.

Ta chờ em ... công viên buồn rũ lá,
Ghế đá sầu trơ vắng đã bao năm,
Từng bước chân quá khứ bước âm thầm,
Trên lối nhỏ ngược xuôi dòng tiềm thức.
 
Ta chờ em cả cuộc đời thao thức,
Khóe mắt chừ in đậm dấu chân chim,
Dù mai đây thiên thu giấc im lìm
Ta vẫn đợi sau hàng mi nhẹ khép.

Sept 24, 2011
Hoàng Nhật Thơ.



Sunday, September 18, 2011

Thu về



Thu về góc nhỏ Tha Hương*,
Sông Kiên, Rạch Giá, mái trường Nguyễn xưa,
Kỷ niệm nào mãi đong đưa,
Dâng lên ánh mắt lưa thưa giọt sầu,
Phượng cài áo trắng ... tìm đâu,
Tóc huyền giờ đã phai màu thời gian,
Lưu bút buồn nhớ miên man,
Ngày xanh khép lại ... phai tàn tháng năm,
Đâu đây ... một thuở xa xăm,
Kề vai dưới ánh trăng rằm sáng soi,
Tình hồng tô thắm bờ môi,
Tim nồng, môi nhẹ tìm môi ... thẹn thùng,
Tay đan mộng ước mông lung,
Ngày mai pháo đỏ bước chung cuộc đời,
Thu nào lệ đẫm người ơi,
Thu nào hai đứa đôi nơi phương trời,
Ba mươi năm lẻ ... lá rơi ...
Người đây, kẻ đó ... buồn ơi ... Thu về !

Sept 17, 2012
Hoàng Nhật Thơ

*Blog Tha Hương


Tuesday, September 06, 2011

Vào Thu ...


Trời vào thu ... gió giao mùa se lạnh,
Không gian buồn lờ lững vài áng mây,
Lá thay màu ... nắng lẫn trốn đâu đây,
Chiều dần xuống ... tâm tư chùng sâu lắng.

Từng giọt mưa đẫm ngõ hồn hoang vắng,
Rơi chậm buồn tí tách nhịp thời gian,
Mảnh hoàng hôn trên ngày tháng phai tàn,
Đời như chiếc lá vàng hiu hiu gió.

Tìm lại đâu tháng ngày xa xưa đó,
Mỗi thu về ... áo trắng đẹp lối đi,
Vẫy tay chào đưa tiễn hạ sầu bi,
Vui nhẹ bước thầm thì niên học mới.

Khép mắt lại ... đã xa tầm tay với,
Vui hay buồn ... kỷ niệm cũng khắc ghi,
Trong cuộc đời bao lần lệ hoen mi ...
Khi kẻ ở ... Người đi ... mùa thu chết !

Sept 06, 2011
Hoàng Nhật Thơ 


Sunday, September 04, 2011

Đời Người ... Đời Lính ...

Người viết diễn đọc

     "Nguyện hiến dâng cuộc đời cho Non Sông, Tổ Quốc" ... đó là lời thề của những người trai thời loạn khoác chinh y. Anh lìa xa mái ấm gia đình, nơi ấp ủ một quãng đời lớn khôn trong "Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình", "Công Cha như núi Thái Sơn" ... rời mái học đường với bao kỷ niệm thân thương "mỗi năm đến hè, lòng man mác buồn ..." của một thời áo trắng ... gởi lại người yêu nơi phố thị ngày ngày ngóng trông cánh thư hồng viết "từ KBC giá lạnh rừng sâu ...", để lại nguời vợ hiền nơi hậu phương với hình ảnh "ngày đó anh còn nhớ buổi đăng trình, em bồng con đứng nhìn ...", ngày đêm trông chờ tin chồng ở một vùng hỏa tuyến mịt mờ khói lửa nào đó ... Anh để lại sau lưng tất cả những gì thân thương nhất ... vui bước quân hành, dâng hiến cả cuộc đời cho Non Sông-Tổ Quốc ... chúng ta thường nói kiếp nhân sinh là 60 năm cuộc đời hoặc 100 năm trong cõi phù du nhưng cuộc đời của lính là bao lâu nào ai biết được ...

     Hình hài của những người trai đi viết sử xanh là do cha mẹ tạo ra, được nuôi nấng, dạy dỗ, tập ăn, tập nói ... Ơn thầy cô mài giũa trở thành người hữu ích cho mai sau trong xã hội ... "Công Cha-Nghĩa Mẹ-Ơn Thầy" và anh đã trưởng thành trong khói lửa quê hương. Đời Lính mới thật sự là cuộc đời của những người đem sinh mạng treo đầu súng để mang niềm vui cho đời ... Đời lính được tính kể từ khi anh đưa tay tuyên thệ "Vị Quốc Vong Thân" trước bàn thờ Tổ Quốc nơi Vũ Đình Trường trong ngày lễ mãn khóa, chính thức trở thành Người Lính VNCH nhận lãnh gói hành trang "Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm" lao vào khói lửa. Trên bước quân hành "Bảo Quốc-An Dân", Anh không hề nghĩ đến nấc thang binh nghiệp, Anh chỉ biết anh là Người Lính VNCH với "Trách Nhiệm" đem cuộc đời, máu xương, sinh mạng để gìn giữ quê hương được an lành, người dân được no ấm, hạnh phúc nơi hậu phương. Hằng trăm Người Lính nhỏ còn mài đủng đáy quần trên ghế nhà trường nhưng quãng đời niên thiếu của họ đã gắn liền với cuộc chiến, họ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ mái trường Thiếu Sinh Quân, bảo vệ tổ quốc trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến, máu của họ đã thấm vào trang chiến sử bi hùng của QLVNCH.

     Hai mươi năm trên bước đường "xanh cỏ, đỏ ngực" đánh giặc quên cả tháng ngày ... có biết bao nhiêu Người Lính VNCH hiến dâng cả cuộc đời chỉ trong vài tuần, vài tháng hoặc vài năm rồi trở về im lìm trong hòm gỗ cài hoa ... bao nhiêu người hiến dâng cả cuộc đời chỉ trong một vài ngày ngắn ngủi sau khi trình diện đơn vị đã được trang trọng phủ cờ tổ quốc ... bao nhiêu người đã hiến dâng trọn cuộc đời trở về bằng tấm thẻ bài lạnh giá mang giòng máu của cha ... bao nhiêu người đã hiến trọn cuộc đời cho Non Sông khi đôi chân không còn để mang lại đôi giày saut vương cát bụi sa trường, kẻ thì không còn đôi tay để cầm súng ngăn bước giặc xâm lăng, người thì không còn cặp mắt nhìn những đóm mắt hỏa châu soi sáng chiến trường ... Những người còn lại hiến dâng cuộc đời cho đến ngày cuối cùng nhưng không phải ngày cuối của đời người, đời lính mà là ngày cuối của cuộc chiến quân sự trên quê hương ; Sau ngày bị bức tử "gãy súng", bao nhiêu người đã rút vào rừng lập chiến khu phục quốc, bao nhiêu người rời bỏ mảnh đất tạm dung nơi đất khách trở về chiến khu, xâm nhập quê hương tiếp tục chiến đấu hiến dâng cuộc đời cho Tổ Quốc, giành lại hai chữ "Tự Do" cho quê hương, dân tộc. Ngày 19/08/2011 vừa qua, gần 37 năm sau kể từ ngày "gãy súng", có người vừa trở lại bằng nắm xương tàn với chiếc nón sắt rỉ sét và tấm thẻ bài lạnh giá, đó là bốn Người Lính "Thiên Thần Mũ Đỏ" đã anh dũng chiến đấu tại thị xã Bà Rịa, Vũng Tàu đến trưa ngày 01/05/1975 và can trường quyên sinh theo mệnh nước ... trong tương lai còn bao nhiêu anh hùng QLVNCH sẽ trở về bằng nắm xương khô từ một mảnh đất, gốc cây nào đó trên quê hương ... Chiến tranh kết thúc trong tang thương, uất nghẹn. Sau ngày tàn chinh chiến, lũ người "chiến thắng" hung hăng "hồ hởi, phấn khởi" gieo tang tóc lên toàn thể gia đình Quân-Dân-Cán-Chính VNCH ; Lũ người đi "chống Mỹ, cứu Nước" đã mang chủ thuyết cộng sản vô thần khát máu nhuộm đỏ cả quê hương dân tộc bằng chính máu của người dân Việt.
      
      Mỗi năm ... tháng tư đến một lần nhưng không phải là tháng tư tang thương của 36 năm về trước ... Tháng Tư hằng năm mang theo Tháng Tư Đen trong dòng tiềm thức trở về ... như thế chúng ta có 2 tháng tư trong một năm kể từ ngày gãy súng ... tháng tư của mỗi năm và Tháng Tư Đen năm xưa ... 36 năm, 72 tháng tư đau buồn. Ngày tàn chinh chiến đã trôi xa, những năm dài nơi chốn lao tù khắc nghiệt, tang thương cũng đã qua ... nỗi đau uất nghẹn, căm hờn cũng phôi pha phần nào trong hơn 1/3 thế kỷ nhưng phôi pha không có nghĩa là quên và càng không thể nào quên những tội ác tày trời, tội phản quốc của lũ CSVN gây ra trên quê hương trong 36 năm qua như đem từng phần đất nước hiến dâng cho Trung cộng, đối xử độc ác dã man với người dân còn tồi tệ hơn nô lệ, bán dân ra nước ngoài làm lao động, làm nô lệ tình dục ... lũ cộng sản chỉ biết dùng bạo lực dã man đè đầu cỡi cổ người dân để bọn chúng tiếp tục bám víu chiếc ghế đảng cướp, ngất ngưỡng cười man rợ trên đỉnh cao quyền lực và tham nhũng nhưng lại ươn hèn, nhu nhược gục đầu đội "Háng" Quốc.

     Có người không ngượng miệng nói "mấy chục năm rồi còn quốc hận gì nữa, còn chống cộng gì nữa" ... Tôi không biết những người này ăn gì để sống chật đất trong thời chiến ... họ ăn những hạt cơm từ đồng ruộng thắm đỏ giòng máu của Người Lính VNCH để sống hay họ ăn B40 của cộng sản để thoi thóp trốn chạy khỏi thiên đàng máu ; Bao nhiêu năm nay trên xứ người, không biết họ ăn gì mà há mõm thốt nên những lời "thối" như thế. Thật đáng buồn cho những kẻ đem sinh mạng, thân xác đi đánh đổi miếng ăn, manh áo nơi xứ người.

     Đời Lính không kết thúc trên đôi nạng gỗ, trên chiếc xe lăn khi xa rời chiến trận ... Đời Lính không "khóa sổ" sau ngày bị bức tử gãy súng, không bị chôn vùi ở trang sử "Tháng Tư Đen" tang tóc ... Đời Lính không "khai tử" khi đặt bước chân lưu vong, viễn xứ ... Người Lính VNCH vẫn giương cao Lá Quốc Kỳ Màu Vàng Ba Sọc Đỏ trên con đường đấu tranh nơi hải ngoại trong phần đời còn lại của "Người Lính già xa quê hương". Khi nào hai đóm mắt hỏa châu của Người Lính lịm tắt vĩnh viễn trên dương thế, hơi thở cuối cùng thoát khỏi buồng phổi còn vương phần nào khói thuốc súng sa trường ... Đời Lính mới thật sự kết thúc nhưng Người Lính VNCH vẫn sống mãi trong lòng dân tộc, trong dòng lịch sử quê hương. Sự hy sinh cao cả của Người Lính VNCH được trang trọng ghi vào trang chiến sử "Bảo Quốc-An Dân" bi hùng lưu lại cho hậu thế ... Bộ Quân Sử QLVNCH lừng danh là kỷ vật quý giá của Người Lính VNCH để lại cho đời.

     Một ngày làm Người Lính VNCH ... Trọn đời là Người Lính VNCH.

     Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Bất Tử.

Sept 04, 2011.
Hoàng Nhật Thơ

Saturday, September 03, 2011

Vùng Ký Ức ...


Thời gian, tuổi ngọc xa bay,
Buồn tênh ngồi đếm tháng ngày dần trôi,
Bao chiều nhìn nắng phai phôi,
Bao đêm lặng ngắm bóng tôi trên tường,
Một thời để nhớ để thương,
Chỉ còn kỷ niệm sầu vương ngõ hồn,
Nhòa mi lịm khép hoàng hôn,
Nghe vùng ký ức ... nửa hồn thương đau !

Sept 03, 2011
Hoàng Nhật Thơ


Friday, September 02, 2011

Em Đi ...


Em đi ... nắng úa sân trường,
Phượng buồn khép cánh ... học đường buồn tênh,
Từ em viễn xứ lênh đênh,
Ve sầu ngân khúc không tên não nề,
Còn đâu hai buổi đi về,
Phất phơ vạt áo, tóc thề buông vai,
Lối xưa nhung nhớ gót hài,
Hè qua, Thu đến u hoài ngẩn ngơ,
Lá vàng ... ai chép vần thơ,
Ép trong trang sách thẫn thờ nhìn mưa,
Mưa giăng song cửa lưa thưa,
Người đan nỗi nhớ đong đưa tháng ngày,
Thời gian lặng lẽ vụt bay,
Ngày thơ xa khỏi tầm tay ... rã rời,
Còn chăng kỷ niệm một thời,
Trong trang ký ức trọn đời nhớ thương,
Chiều nay hè đến sân trường,
Ve sầu ly khúc ... chán chường chơi vơi,
Em đi ... nắng khép chân trời,
Hạ buồn, phượng rũ ... thương đời tha hương.

Sept 02, 2011
Hoàng Nhật Thơ


Thursday, September 01, 2011

Trận Chiến Ðấu Bi Hùng của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu Tháng 4 1975

 

Truong Thieu Sinh Quan

  

 
Tại ngôi Trường Mẹ T.S.Q. Vũng Tàu, tôi đã được nuôi dưỡng, giáo dục suốt 7 năm trường từ khi tôi là một chú bé 11 tuổi rưỡi đến khi tôi được 18 tuổi rưỡi.
Một lớp của liên lớp 11 niên khóa 1973-1974 chụp trước dãy phòng học tại khu văn hóa của Trường Mẹ. Cậu bé Trần Quốc Toản là Thánh Tổ của tập thể TSQ Vũng Tàu. Hầu hết, các em TSQ đều sống nội trú trong trường ít nhất là 4 năm để trau dồi văn hóa, chính trị, quân sự, võ thuật, âm nhạc, và thể thao. Tạm biệt, vĩnh biệt các bạn học của tôi, của tháng năm vui buồn thời ấu thơ.
Đội Quốc Quân Kỳ của trường T.S.Q. đang tiến vào vũ đình trường trong ngày khai giảng niên học mới. Trong những ngày lễ trọng đại, tất cả T.S.Q. đều được mặc quân phục đại lễ.
Các chú lính tý hon Thiếu Sinh Quân VNCH trong bộ đại lễ đang diễn binh tại Thủ Đô Sài Gòn trong ngày Quân Lực 19/06 hàng năm. Bé tý mà đi cơ bản thao diễn cũng oai nghiêm, chững trạc lắm, TSQ à. 1,2,3,4; 1,2,3,4...
T.S.Q. diễn binh trong khuôn viên trường vào mỗi sáng thứ Hai hằng tuần sau buổi lễ chào quốc kỳ V.N.C.H..
Các chú lính tý hon đang tập tành sống đời sương gió, mưu sinh thoát hiểm, đời quân ngũ.
Trong bộ quân phục đại lễ, các chú lính tí hon Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và xe hoa của đơn vị đang diễn hành ngoài đường phố của Thị Xã V.T. nhân ngày lễ Phật Đản. " Tự thắng để chỉ huy " là châm ngôn của các chú lính TSQ/VNCH. I'm proud to be one of TSQ cadets before 30/04/1975 .
T.S.Q. biểu diễn võ Thái Cực Đạo trong ngày khai giảng niên học mới, ngày tiếp nhận tân T.S.Q, và lễ ra trường của khóa đàn anh T.S.Q..
Bên cạnh võ Thái Cực Đạo, T.S.Q. cũng được rèn tập võ Nhu Đạo.
Đội túc cầu của trường T.S.Q. Vũng Tàu.
Khu vực phạn xá của trường T.S.Q.. Nơi đây có đầy đủ bếp lò, phòng chứa lương thực, vài dãy phòng ăn dành cho T.S.Q. trong các buổi ăn trưa, buổi ăn chìều.
Bộ quân phục tác chiến màu olive được các T.S.Q. sử dụng trong những buổi học quân sự, chính trị vào ngày thứ năm mỗi tuần lễ.
Thiếu Sinh Quân ( Junior Military cadets ) VNCH diễn binh trong Ngày Quốc Khánh 1-11-1966 tại Thủ Đô Sài Gòn.
Phái đoàn T.S.Q. Vũng Tàu tham quan trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt vào năm 1968.
T.S.Q. tại trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt năm 1968. Đã có rất nhiều T.S.Q. rời Trường Mẹ và thụ huấn tại trường V.B.Q.G. Đà Lạt. Binh nghiệp trọn đời là truyền thống của tập thể T.S.Q./V.N .C.H..
Một phù hiệu khác của tập thể T.S.Q. / V.N.C.H..
Bên trái: Dãy lầu Khu Văn Hóa, bên phải: Phòng ngũ Tiểu Đòan I và II TSQ
************



Dãy lầu phòng ngũ Tiểu Đoàn I và II TSQ




Thiếu sinh quân QLVNCH

++++++++++++++

Từ bên kia bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T-54 và các sư đoàn Bắc Việt đã xoá nát văn kiện Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973 tiến dần về Nam. Như là một định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặt và bức tử theo ván bài chiến lược quốc tế được quyết định từ ngoài cương thổ Việt Nam. Hoa Kỳ làm ngơ, thế giới cúi mặt trong lúc lãnh thổ miền Nam lần lượt lọt vào tay quân đội chính quy Bắc Việt. Quảng Trị mất, kế đến là Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết… Và rồi đầu tháng Tư 1975, mặc dầu bị Sư Đoàn 18 Bộ Binh của tướng Lê Minh Đảo cầm chân quyết liệt tại Long Khánh suốt 12 ngày đêm, Bắc quân lại tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn.
Quân ta cứ rút, cứ rút. Vũng Tàu, những ngày cuối tháng tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn lại của Tổ Quốc, cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng và náo động. Dòng người di tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường. Ngày 26 tháng 4, quân đội miền Bắc tấn chiếm Biên Hoà, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May nối liền Bà Rịa và Vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập, chờ chết.
Trường Thiếu Sinh Quân, mặc dù toạ lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, nhưng bị ngăn cách bởi những vách tường đá kiên cố bao quanh, những giao động âu lo, tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn đã không lọt được vào trường. Các Thiếu Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn như mọi ngày. Thiếu Sinh Quân liên lớp 12 (lớp người viết), đang trong thời gian học thi tốt nghiệp, vẫn cắm cúi miệt mài với bài vở. Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 đã được nhà trường cho về với gia đình. Các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân. Không khí nhà trường vì thế càng tăng vẻ yên tĩnh, nặng nề. Cái nặng nề và yên tĩnh đó trở nên ngột ngạt và căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra những nét lo âu, bức xúc trên gương mặt của các cán bộ, nhân viên cơ hữu của trường.
Ngày 28 tháng 4, chúng tôi được lệnh tập họp sau bữa ăn chiều. Trung Tá Ngô Văn Dzoanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:
- Các em không có gì phải rối loạn, lo âu. Nhà trường đã có kế hoạch di tản!
Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường, tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được chỉ huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của đám gà con đang bối rối chui rúc dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu đang lờ lững lượn trên vòm trời .
Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những lo âu của anh em lại trương lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo từ đâu xé gió rít qua không gian… và Ầm! Ầm! Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rớt vào chân núi đài viba ngay đằng sau lưng trường.
Đại Úy Lê Viết Đắc, cán bộ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp 12, rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược xuôi ra lệnh cho các Thiếu Sinh Quân nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như một con gà mẹ đang dáo dác bảo vệ đàn con. Không biết mục tiêu của những viên trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay là đơn vị đồn trú tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng đạn nổ và cảnh núp đạn lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo cho những đầu óc còn non nớt chỉ biết ăn, học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về sự sống và sự chết.
Chúng tôi vẫn nằm yên. Địch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường, sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.
Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác hụt hẫng, hoang mang, toàn trường như bất động lắng nghe tiếng Đại Úy Hoàng, cán bộ liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:
- Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu sinh quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập họp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh.
Thế là hết ! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuân theo răm rắp. Khoảng xế một giờ trưa, toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả cán bộ, nhân viên. Đoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Là Thiếu Sinh Quân tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp 12, tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Đội ngũ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang. Đa số anh em là những đứa trẻ mất cha, mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm đầu đời và tương lai, nay phải đoạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Đi về đâu? Với ai?
Thông báo toàn trường sẽ được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người lính. Đi được nửa đường thì đột nhiên chúng tôi bị một số binh sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến chặn lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện với người chỉ huy toán lính. Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt của cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi đoán Thuỷ Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban xuống.
Trên đường về, tâm hồn của tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng lúc càng sát nách, đường thoát bị tắt nghẽn, sinh lộ càng lúc càng 
hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản thật là mong manh
Về đến trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch này, chúng tôi sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Đôi 7 ở ngoài khơi Vũng Tàu. Thời gian như chậm lại trong giây phút chờ đợi nặng nề. Cả đám chúng tôi cùng bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường. Niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên cùng đám bụi mù tung cao theo cánh quạt. Hành khách của chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ mặc thường phục, Trung Sĩ 1 Ngộ, cán bộ trường, và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu Ðoàn Quang Trung, là liên lớp nhỏ nhất của trường.
Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ ngồi chờ đợi. Thời gian ngóng đợi kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng tôi có cảm tưởng như là một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng dáng của chiếc trực thăng, chờ âm thanh của những cánh quạt. Chiếc trực thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi buổi chiều càng lúc càng ngả bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.
Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy trưởng lăn bánh vội vàng rời khỏi cổng trường. Trái tim nghẹn đắng một nỗi uất ức kèm theo một nỗi chới với hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi chợ đông nghẹt những người. Loa phóng thanh một lần nữa xác định một thực tế phũ phàng:
- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa, các em hãy tự lo lấy bản thân!
Thế là quá rõ. Chúng tôi đã bị bỏ rơi. Ngôi trường này là nhà. Các cán bộ là người thân. Giờ đây chúng tôi biết phải làm gì, biết đi về đâu. Thế là như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tung ra tản mát chạy khỏi trường. Chạy đi đâu? Chẳng biết ! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng chạy. Thế thôi!
Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc (hiện ở tại Việt Nam), cùng chạy chung. Tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau núi, chúng tôi chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung, dân chúng ai cũng đóng chặt cửa, trốn trong nhà. Thật không khác một đám loạn kiêu binh
Tôi thấy ở phía trước mặt, cách chỗ tôi đứng khoảng 200 thước, một Thiếu Sinh Quân cũng cầm súng như tôi bị một người lính, không biết là ta hay địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng của em. Tôi không hiểu vì sao. Hoảng hốt tôi và Thịnh vội vàng vất súng và quay ngược chạy trở về trường. Trong phút giây này, có lẽ chỉ có trường tạm thời còn là tổ ấm dung thân. Mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy liên tục từ trường ra bãi trước và từ bãi trước trở về trường như vậy.
Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu Úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của trường. Gia đình của Vần nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu. Bố mẹ Vần dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vần nhìn Thịnh và tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu mến. Tôi không bao giờ quên được ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội nghiệp cho hai đứa chúng tôi.
Là những bạn học cùng lớp, Vần còn có gia đình ruột thịt ở bên cạnh, hai đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi dạt về đâu trong cơn biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trờI, đêm đen đã trùm kín không gian tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗI lo âu. Mọi người cứ ngồi nhìn nhau chẳng ai nói một lời.
Trong lúc mọi người đang chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe tiếng loa phóng thanh từ trong trường vọng lại:
- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh lắm.
Tiếng gọi của em nhỏ Thiếu Sinh Quân vang vọng trong màn đêm, thúc bách não nuột như tiếng kêu chim chíp của gà con mất mẹ, làm cho tôi vô cùng xốn xang, bức xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy vào các anh lớn đùm bọc. Là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lớp lớn nhất, tôi nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng gọi loa đã khiến tôi phải đứng lên và cương quyết trở lại trường với các em. Bố Mẹ Vần lo lắng khuyên chúng tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vần và nói trước khi cùng Thịnh phóng vào đêm tối:
- Tụi con không thể bỏ các em được!
Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc Trình, Nguyễn Văn Minh cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá cửa kho vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một toán các Thiếu Sinh Quan khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu cơm và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu carbine cùng với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.
Nhìn lên bầu trời đen thẳm với nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ lan man với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc đàn em, chúng tôi sẵn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến này sẽ đi về đâu ? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thân cuối cùng của chúng tôi.
Tôi và Thịnh vác súng đi một vòng toàn trường. Thăm các chốt và các chòi canh. Các chốt canh gác các hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên những ổ súng, thành thạo nạp những băng đạn vào súng, sẵn sàng khai hoả, tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như những anh hùng Phù Đổng. Tôi đặt mật khẩu dặn các chốt canh phải học thuộc, nếu thấy bóng người thì lên tiếng hỏi. Trả lời không đúng mật khẩu là “quạng” liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào.
Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đều được phân phát khẩu phần đầy đủ. ( Nhìn càng bạn “chén” bữa cơm nửa khê, nửa sống một cách ngon lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày nhập trường của các bạn.)
Tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của chỉ huy trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc này Thịnh quá mệt, chẳng còn tha thiết gì nữa. Cậu ta chui ngay vào một góc và chỉ vài phút sau là đã bắt đầu “kéo đờn cò.” Ngoài trời đêm đen thật thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công nhìn qua trại gia binh bên cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vần đang làm gì và nghĩ đến ánh mắt yêu thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không bao giờ có lại được bữa cơm đó.
Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tĩnh. Tôi biết một số quá mệt, chắc cũng đã “hồn bướm mơ tiên,” tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay phiên nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ nay đã trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẵn. Không ai có thể ngờ được sức mạnh của những con mãnh hổ này lợi hại đến nhường nào.
Tôi quay lại phòng chỉ huy trưởng, và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh em. Hai đứa em gái của tôi, bấy giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi chợ. Hằng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai cô em gái của tôi thì rất thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tôi lại đến vòi mẹ xin tiền rồi mỗi đứa một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Đi gần đến chợ thì… một em Thiếu Sinh Quân lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng. Em nói
Anh Dũng ! Có lính đông lắm, đang đi về phía mình
Tôi bật dậy, nhảy ngay ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tĩnh. Tôi chẳng nhìn thấy gì và nghĩ cậu bé lay mình dậy chắc vì hoảng sợ nên tưởng tượng, trông gà hoá cuốc. Sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm thì tôi chợt nghe tiếng oang oang của Hạ Sĩ Hoành, các anh em đặt biệt hiệu vui là Hoành heo. Anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên với sự hiện diện của Hạ Sĩ Hoành, chẳng biết Anh nhập cuộc từ bao giờ. Hạ sĩ Hoành bảo chúng tôi:
- Tụi bay ở đó đi! Chắc là lính mình đó ! Để tao ra coi thử!
Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành liên lớp 12 và một Thiếu Sinh Quân nữa tôi không biết tên. Đến lúc đó tôi mới phát hiện có môt nhóm người lố nhố ở tít đằng xa đang tiến dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu căng mắt theo dõi và dặn anh em chuẩn bị sẵn sàng cho mọi bất trắc. Đột nhiên, tất cả chúng tôi đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:
- Việệt Cộộộng!
Tiếng hô vừa dứt thì lập tức tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 phòng quân số, phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề khai hoả yểm trợ cho đồng đội chạy trở vào trường. Bắc quân chắc không thể nào ngờ họ lại được đón tiếp một cách “nồng hậu” như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hoả lực từ trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ họ nghĩ trường Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hoả dữ dội ở cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh táo và sẵn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.
Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã choàng thức và ngạc nhiên, lo âu, nhìn về hướng trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng (hiện đang định cư tại Seatle, Washington ) và Phạm Ngọc Trình (đã chết ở Việt Nam) chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Đến ban quân số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc cầu thang. Thoắt một cái khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẵn sàng tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ khẩu đại liên trên lầu gào lớn:
- Ê, tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!
Tiếng gào của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù. Mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng bùng vì tiếng đạn tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì hết sức tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng sẽ tấn công để chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu Sinh Quân liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường, chiến đấu trong tâm trạng “điếc không sợ súng” và ý nghĩ “không còn gì để mất!”
Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện trường ở bên kia đường và chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm lợi thế của chúng tôi khai hoả từ trên cao. Một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng phóng lựu, B-40 để công phá chúng tôi từ mặt đất, vì với vị trí phòng thủ kiên cố, hoả lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được chúng tôi.
Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát B-40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9 hoặc 10, chạy ra kéo cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xảy ra trong vòng không đầy một phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B-40 thứ hai nốI tiếp một lần nữa mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ. Từ giờ phút đó chẳng ai “thèm” chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt, đánh nhau mới “sướng!”
Mặc dầu có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Đối phó với địch quân trên tầng lầu khách sạn, Phú Văn Đại cầm khẩu M-79 bắn trực xạ vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà xử dụng vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này. Đối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phối hợp với các khẩu trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót cho nhau. Những tràng đạn giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng của các khẩu garant nhịp nhàng ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một giàn nhạc giao hưởng điêu luyện và biến thành một lướI đạn chằng chịt phủ xuống đầu đốI phương.
Với quân số hơn một tiểu đoàn chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hoả lực cố gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến đến gần chúng tôi. Nhưng với vị trí thuận lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước làn đạn kẻ thù, các em nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn một giờ chiến đấu.
Đến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng chỉ huy trưởng, tôi chạy băng qua phòng quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên đặt tại đó. Qua hai cánh cổng mở toang, tôi thấy một bộ đội cộng sản đang đặt khẩu phóng lựu trên vai nhắm thẳng ngay tôi. Tôi bật ngay khẩu carbine trên tay hướng về hắn bóp cò. Cùng lúc, viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt ánh sáng xanh bay về phía tôi. Chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay, viên đạn trúng đài biểu tượng Nhân Trí Dũng phá tan một mảnh đá lớn.
Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Khuỵu xuống vớI chân phải bị trúng thương, tôi liếc nhìn xuống chiếc áo sơ mi đang mặc loang lổ đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy những máu mà không cảm thấy một chút đau đớn gì thì tôi ngã ra ngất xỉu. Trong lúc đó Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân. Lê Văn Tánh (còn ở tại Việt Nam) chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn vào đùi.
Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua khu Văn hoá. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây số.
Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10 giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều đình ngừng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự vì các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ Quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức, nhưng chắc hẳn cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm phơi nắng ngoài cổng trường.
Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân xông vào cổng trường, chỉ còn vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị thương không thể đào thoát. Tất cả bị bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. TrạI Gia Binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân. Kết quả là tất cả đã chui rào biến mất, khiêng luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở Trại Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.
Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân và vai đau đớn vì miểng đạn, mặt thì sưng vù không há miệng được do vết thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương lẫn nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân.
Bệnh viện đầy ngập những người bị thương. Nhân viên y tế không đủ để chăm sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm chẳng có y tá nào ngó ngàng tới. Chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau, tình cờ do một duyên may tôi mới được biết tên, là Nguyễn Kim Hùng (hiện cư ngụ tại Oklahoma), đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Đến sáng hôm sau thì một đám bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu (hiện định cư tại Minnesota), Thiện huế và vài anh em nữa tôi không nhớ tên đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.
Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Trường Thiếu Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu. Tuy nhiên, trong lòng những người dân xứ biển, hình ảnh hào hùng của các Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. Tổ quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh Quân vũ dũng kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân đội.
HẾT
CTSQ Nguyễn Anh Dũng và CTSQ Lâm A Sáng
Colorado, ngày 24 tháng 10 năm 2002
(Edited by Bắc Phong Sài Gòn/ K23 Thủ đức)